Vua Duy Tân – Từ Hoàng đế An Nam trở thành Thiếu tá của Quân đội Pháp

Vua Thành Thái lên ngôi năm 1889, ở ngôi tới năm 1907 thì bị thực dân Pháp ép thoái vị vì thể hiện tinh thần chống Pháp ngày một rõ nét.

Sau đó cựu hoàng Thành Thái bị giam lỏng ở Vũng Tàu, hoàng tử Vĩnh San được đưa lên ngai ngai vàng thành vua Duy Tân lúc mới 7 tuổi. Đây là độ tuổi lên ngôi nhỏ nhất trong số 13 vị Hoàng đế triều Nguyễn.

Giống như vua cha, Duy Tân là một trong hai hoàng đế nhà Nguyễn kháng Pháp và được đánh giá là vị vua chống Pháp quyết liệt nhất. Tuy nhiên sau này, cựu hoàng Duy Tân lại là vị vua Việt Nam duy nhất trở thành sĩ quan trong biên chế quân đội Pháp.

Năm 1916, vua Duy Tân kết hợp cùng Trần Cao Vân, Thái Phiên của tổ chức Việt Nam Quang Phục hội (do Phan Bội Châu thành lập từ 1912) để mưu đồ chống Pháp. Ban đầu, vì biết vua có quan điểm chống Pháp nên Trần Cao Vân và Thái Phiên đã vận động người tài xế riêng của vua xin thôi việc, rồi đưa Phạm Hữu Khánh, một thành viên của Hội – vào thay thế làm tài xế.

Tháng 4 năm 1916, khi vua Duy Tân ra bãi tắm Cửa Tùng nghỉ mát, Phạm Hữu Khánh có đưa cho vua một bức thư của hai lãnh tụ Trần Cao Vân và Thái Phiên. Vua đọc thư và muốn gặp hai người này. Ngày hôm sau, ba người cùng đến câu cá ở Hậu hồ, vua Duy Tân đồng ý cùng tham gia khởi nghĩa. Khởi nghĩa dự định được tổ chức vào 1 giờ sáng ngày 3 tháng 5, nhưng cuối tháng 4, một thành viên của Việt Nam Quang phục Hội ở Quảng Ngãi là Võ An đã làm lộ tin. Chiều ngày 2 tháng 5, công sứ Pháp ở Quảng Ngãi là de Taste mật điện với Khâm sứ Trung kỳ biết tin. Nghe tin, khâm sứ Charles ra lệnh thu súng ở các trại lính người Việt cất vào kho và cấm trại không cho một người lính Việt nào ra ngoài.

Đêm 2 tháng 5, Trần Cao Vân và Thái Phiên đưa thuyền đến bến Thương Bạc đón vua Duy Tân. Nhà vua cải trang theo lối thường dân đi cùng hai người hộ vệ là Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu. Họ tới làng Hà Trung, lên nhà một hội viên Việt Nam Quang phục Hội để chờ giờ phát lệnh bằng súng thần công ở Huế. Nhưng chờ đến ba giờ sáng vẫn không nghe hiệu lệnh, biết đã thất bại, Trần Cao Vân và Thái Phiên định đưa vua Duy Tân tới vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi. Sáng ngày 6 tháng 5 năm 1916, họ cùng bị bắt.

Khâm sứ tại Huế Charles và Toàn quyền Đông Dương Ernest Nestor Roume đã thuyết phục vua Duy Tân trở lại ngai vàng nhưng ông không đồng ý và tỏ rõ quan điểm:

Các ngài muốn bắt buộc tôi phải làm vua nước Nam, thì hãy coi tôi như là một ông vua đã trưởng thành và có quyền tự do hành động, nhất là quyền tự do trao đổi tin tức và ý kiến với chính phủ Pháp.

Pháp bắt triều đình Huế phải xử, Thượng thư bộ Học Hồ Đắc Trung được ủy nhiệm thảo bản án. Trần Cao Vân khi đó dù bị giam trong ngục, nhưng vẫn nhờ được người báo tin cho Hồ Đắc Trung là ông xin được lãnh hết tội và xin tha cho vua. Quan thượng thư Hồ Đắc Trung đã làm án đổ hết tội cho 4 người Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu. Bốn người bị xử chém ở An Hòa, còn vua Duy Tân thoái vị.

Ngay trong năm 1916, hai cha con cựu hoàng Thành Thái, Duy Tân (cùng toàn bộ gia quyến) đều bị đưa sang sống ở đảo Réunion ở Ấn Độ Dương, vùng Đông Nam của Châu Phi.

Theo lời ông Vĩnh Giu (em của cựu hoàng Duy Tân, con của cựu hoàng Thành Thái), khi sang đến đảo, chính quyền Pháp bố trí gia đình hai cựu hoàng là Thành Thái và Duy Tân mỗi gia đình một biệt thự cùng các khoản phí sinh hoạt khác, nhưng với hai điều kiện: không được tự tiện ra sân bay, bến cảng và tất cả vật dụng trong nhà nếu hư hỏng phải báo cáo với toàn quyền để thay mới. Thượng hoàng Thành Thái không chấp nhận điều kiện trên nên chỉ ở trong hai năm, sau đó ông đưa gia đình ra ở tại một ngôi nhà gỗ rộng lớn ở bên ngoài.

Về phần cựu hoàng Duy Tân thì ngay từ đầu đã từ chối một biệt thự sang trọng người Pháp dành cho, đưa gia đình ra sống trong một căn nhà thuê lại một người dân ở thành phố Saint-Denis. Ông sống giản dị trong căn nhà nhỏ, ăn mặc và sinh hoạt cũng giản dị như bao người dân bình thường khác ở đảo. Ngoài ra, Duy Tân không hợp tính với vua cha Thành Thái nên cắt đứt liên lạc với gia đình, ghi tên học về vô tuyến điện và mở tiệm Radio – Laboratoire bán hàng sửa chữa máy. Đồng thời, ông thi tú tài ở trường Trung học Leconte de Lisle và học thêm ngoại ngữ, luật học.

Duy Tân ít quan hệ với người Pháp, chỉ giao du với một nhóm bạn bè. Ông tham gia hội yêu nhạc, học cưỡi ngựa và thắng nhiều cuộc đua. Cựu hoàng Duy Tân còn viết nhiều bài và thơ đăng trong những tờ báo Le Peuple (Dân chúng), Le Progrès (Tiến bộ) dưới biệt hiệu Georges Dry. Bài Variations sur une lyre briée (Những biến tấu của một cây đàn lia gãy vỡ) được giải nhất văn chương của Viện Hàn lâm Khoa học và Văn chương La Réunion năm 1924. Duy Tân còn là hội viên của Hội Tam Điểm, Franc-Macon và Hội địa phương bảo vệ Nhân quyền và quyền Công dân.

Ngày 18 tháng 6 năm 1940, Charles de Gaulle kêu gọi chống Đức Quốc xã. Sự việc nước Pháp bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đầu hàng phát xít Đức và sau đó lực lượng kháng chiến Pháp ở hải ngoại do De Gaulle đứng đầu được thành lập ở Anh trở về tái chiếm đất Pháp đã có tác động rất lớn đến tư tưởng, tình cảm của cựu hoàng. Ông xem De Gaulle là thần tượng, là hình mẫu cho hoạt động cứu nước của mình. Tuy “nước Pháp tự do” và “nước Pháp thực dân” mà ông chống đối đều là một nước Pháp, cựu hoàng Duy Tân hưởng ứng và bằng đài vô tuyến điện, ông đã thu thập tin tức bên ngoài để chuyển cho Lực lượng kháng chiến tự do Pháp.

Vụ việc đổ bể, ông bị nhà cầm quyền La Réunion (lúc đó theo Chính phủ Vichy) bắt và tạm giam trong nhà giam Lazaret ở thủ phủ Saint-Denis. Hơn 1 tháng sau, ông được trả lại tự do, song các máy móc, thiết bị vô tuyến đều bị tịch thu. Ông tiếp tục phục hồi những gì đã mất và tiếp tục các liên lạc vô tuyến với tổ chức giải phóng nước Pháp có tên là France Libre.

Gần cuối năm 1942, xu thế cuộc chiến ngày một thay đổi nhanh chóng. Đến ngày 27/11/1942, chính quyền đảo Réunion tham gia vào France Libre và cựu hoàng Duy Tân chính thức đứng vào hàng ngũ kháng chiến chống Đức Quốc xã. Ông được thu nhận làm chuyên viên vô tuyến điện trên chính chiếc tàu Léopard từng bắt liên lạc với ông. Tuy nhiên, cơ địa của ông không phù hợp với môi trường sóng nước, ông bị bệnh liên miên. Cuối cùng, chỉ sau 22 ngày sống trên tàu Léopard, ông phải trở lại đất liền.

Năm 1943, cựu hoàng tìm cách trở lại hàng ngũ kháng chiến của Pháp nhưng không thành công. Phải qua tới đầu năm 1944, nhờ vào sự giúp đỡ của Thống đốc đảo Réunion là A. Capagory, cựu hoàng mới được thu nhận vào trại lính Lambert với cấp bậc thấp nhất là binh nhì. Hơn một tháng sau, ông được thăng hạ sĩ.

Hạ sĩ Vĩnh San

Qua năm 1945, chức vụ cao nhất mà cựu hoàng Duy Tân được giao phó trong quân đội là tiểu đoàn trưởng, ngang với cấp thiếu tá. Tuy nhiên lúc này cấp bậc chính thức của ông chỉ là Chuẩn úy.

Ngày 5 tháng 5 năm 1945, có lệnh đưa Chuẩn úy Vĩnh San về phòng Quân sự của tướng Charles de Gaulle ở Paris. Cựu hoàng Duy Tân đến Pháp vào tháng 6 năm 1945 khi Đức đã đầu hàng ngày 8 tháng 5. Ngày 20 tháng 7 năm 1945, ông được đưa qua phục vụ tại Bộ Tham mưu của Sư đoàn 9 Bộ binh Thuộc địa (9ème DIC) đóng ở vùng Schwarzwald (Forêt Noire), Đức.

Năm 1945 đánh dấu một số sự kiện quan trọng trong đời lưu vong của cựu hoàng Duy Tân: Tháng 3/1945, ông được thưởng huân chương kháng chiến với những dòng vinh danh như sau: “Bằng thái độ dũng cảm, sự quyết tâm và qua việc giúp cho nhiều thính giả nghe được các đài phát thanh của nước Pháp tự do hoặc của các nước đồng minh, là những đài bị cấm ngặt việc theo dõi, ông hoàng Vĩnh San đã góp phần vào việc duy trì lâu dài trên đảo Réunion lá cờ kháng chiến và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng…”

Ngày 29 tháng 10 năm 1945, Tướng Charles de Gaulle ký một sắc lệnh hợp thức hóa những sự thăng cấp liên tiếp của Duy Tân trong Quân đội Pháp: Thiếu úy từ 5 tháng 12 năm 1942, Trung úy từ 5 tháng 12 năm 1943, Đại úy tháng 12 năm 1944 và Thiếu tá ngày 25 tháng 9 năm 1945. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng cựu hoàng Duy Tân đã bị Charles de Gaulle dùng như một con bài chính trị trong kế hoạch tái chiếm Đông Dương của Pháp.

Cựu hoàng Duy Tân cho rằng người Pháp sẽ đưa ông trở lại ngai vàng và hai bên sẽ lập một loạt thỏa hiệp được hai chính phủ thông qua. Vào ngày 29/8/1945, thời điểm mà Việt Nam vừa trải qua những ngày tháng hỗn loạn, trên làn sóng của đài phát thanh Radio-Tananarive, cựu hoàng Duy Tân đọc bản tuyên bố chính trị đầu tiên kể từ ngày ông bị lưu vong. Bản tuyên bố gửi đến nhân dân Việt Nam xác định rằng tương lai của đất nước chỉ có thể đạt được bằng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác với nước Pháp. Bản tuyên bố chủ trương một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, hợp tác với Pháp và tạm thời ủy thác cho nước này hai bộ Ngoại giao và Quốc phòng.

Ngày 14 tháng 12 năm 1945, Charles de Gaulle tiếp cựu hoàng Duy Tân. Trong tập Hồi ký chiến tranh, tướng de Gaulle ghi:

Để thực hiện một giải pháp có thể là khả quan nhất cho tình hình ở Đông Dương, tôi đã có một ý định bí mật, đó là đưa cựu hoàng đế Duy Tân tái xuất hiện để thay thế cho Bảo Đại. Duy Tân đã bị chính quyền Pháp truất phế vào năm 1916 và bị đưa đến đảo Réunion. Tuy nhiên, trong lúc cuộc chiến này diễn ra, ông đã phục vụ trong quân đội của chúng ta và mang cấp bậc thiếu tá. Ông có tính cách mạnh mẽ, khoảng thời gian 30 năm lưu vong vẫn không thể xóa nhòa hình ảnh và tiếng tăm của ông trong tâm trí người Việt. Ngày 14/12/1945, tôi tiếp ông để cùng nhau xét xem chúng tôi sẽ cùng nhau làm được những gì. Nhưng cho dù chính phủ của tôi có tiếp xúc để thỏa hiệp với bất cứ ai, tôi cũng trù định việc gắn chặt họ ở Đông Dương, trong guồng máy trang trọng nhất khi thời cơ đến” (Sđd, quyển 3, tr.230 – NXB Plon – Paris 1959)

Cựu hoàng Duy Tân đã từng tâm sự:

Riêng về phần tôi, lòng yêu quê hương Việt Nam không cho phép tôi để ngỏ cửa cho một cuộc tranh chấp nội bộ nào. Điều mà tôi mong muốn là tất cả các con dân Việt Nam ý thức được rằng họ là một quốc gia và ý thức ấy sẽ thức đẩy họ dựng lên một nước Việt Nam xứng đáng là quốc gia. Tôi tưởng rằng tôi sẽ làm tròn bổn phận của một công dân Việt Nam khi nào mà tôi làm cho những người nông dân Lạng Sơn, Huế, Cà Mau ý thức được tình huynh đệ của họ. Nghĩa hợp quần ấy được thực hiện dưới bất cứ chế độ nào: cộng sản, xã hội chủ nghĩa, bảo hoàng hay quân chủ, điều đó không quan trọng, điều quan trọng là phải cứu dân tộc Việt Nam khỏi cái họa phân chia.

Ngày 24 tháng 12 năm 1945, cựu hoàng Duy Tân lấy phi cơ Lockheed C-60 của Pháp cất cánh từ Bourget, Paris để trở về La Réunion thăm gia đình trước khi thi hành sứ mạng mới. Lúc 13 giờ 50, phi cơ rời Fort Lami để bay đến Bangui, trạm kế tiếp. Ngày 26 tháng 12 năm 1945, khoảng 18 giờ 30 GMT, máy bay rớt gần làng Bassako, thuộc phân khu M’Baiki, Cộng hòa Trung Phi. Tất cả phi hành đoàn đều thiệt mạng, gồm có một thiếu tá hoa tiêu, hai trung úy phụ tá, hai quân nhân (trong đó có thiếu tá Vĩnh San) và bốn thường dân.

Mộ cựu hoàng Duy Tân ở châu Phi

Theo nhiều người thì đây có thể là một vụ mưu sát. Việc vua Duy Tân trở lại Việt Nam sẽ gây khó khăn cho Anh trong việc trao trả các thuộc địa. Trong cuốn Le tragique destin d’un empereur d’Annam, E.P Thébault viết:

Ngày 17 tháng 12 năm 1945 – mười hôm trước khi tử nạn – Duy Tân có linh cảm tính mạng ông bị đe dọa. Khi cả hai đi ngang – lần chót – vườn Tuileries, cựu hoàng nắm tay Thébault nói: “Anh bạn già Thébault của tôi ơi! Có cái gì báo với tôi rằng tôi sẽ không trị vì. Anh biết không, nước Anh chống lại việc tôi trở về Việt Nam. Họ đề nghị tặng tôi 30 triệu quan nếu tôi bỏ ý định ấy.

Ngày 28 tháng 3 năm 1987, hài cốt của vua Duy Tân được gia đình đưa từ M’Baiki, Trung Phi về Paris làm lễ cầu siêu tại Viện Quốc tế Phật học Vincennes và sau đó đưa về an táng tại An Lăng, Huế, cạnh nơi an nghỉ của vua cha Thành Thái, vào ngày 6 tháng 4 năm 1987.



Về cuộc sống riêng, khi sang đảo La Réunion, cựu hoàng Duy Tân có đem theo Hoàng phi Mai Thị Vàng, nhưng được 2 năm bà xin về Việt Nam vì không chịu được khí hậu ở đó. Thời gian ở Réunion, ông có chung sống với 3 người vợ ngoài giá thú, vì Hoàng phi Mai Thị Vàng từ chối ly hôn.

Ba người vợ này đều là người ngoại quốc:

  • Bà Marie Anne Viale, sinh năm 1890. Có một con trai là Armand Viale sinh 1919.
  • Bà Fernande Antier, sinh năm 1913, cưới năm 1928. Có tám người con, 4 trai 4 gái đều mang họ Vĩnh San:
    – Thérèse Vinh-San sinh 1928.
    – Rita Suzy Georgette Vinh-San sinh ngày 6 tháng 9 năm 1929.
    – Solange sinh 1930.
    – Guy Georges Vĩnh San (Nguyễn Phúc Bảo Ngọc) sinh ngày 31 tháng 1 năm 1933.
    – Yves Claude Vĩnh San (Nguyễn Phúc Bảo Vàng) sinh ngày 8 tháng 4 năm 1934.
    – Joseph Roger Vĩnh San (Nguyễn Phúc Bảo Quý) sinh ngày 17 tháng 4 năm 1938.
    – Ginette sinh 1940
    – André
  • Bà Ernestine Yvette Maillot, sinh năm 1924. Có một con gái: Andrée Maillot sinh 1945.

Những người con với bà Fernande Antier đều mang họ Vĩnh San, lý do là vì khi chính quyền đề nghị khai giấy tờ thì cựu hoàng Vĩnh San đang ở Pháp, người vợ ngoại quốc này không biết tiếng Việt, trong cái tên Nguyễn Phúc Vĩnh San của chồng, bà tưởng chữ Vĩnh San là họ nên khai cho các con họ này.

Một trong những người con mang họ Vĩnh San đó là Joseph Roger Vĩnh San đã kể lại cuộc sống của cựu hoàng Duy Tân như sau:

[Vừa đến đảo, cha tôi bị ốm nặng, phải đi nghỉ ở vùng Hell Bourg một thời gian, trước khi trở lại thành phố Saint Dennis, đảo Réunion.

Cha tôi đã phải thay đổi nhà nhiều lần, toàn là nhà đi thuê chứ không có đủ tiền để mua nhà, biệt thự như nhiều vị vua chúa các nước khác cũng bị lưu đày ở đây. Bởi chính phủ Pháp trợ cấp cho ông mỗi tháng một số tiền khá nhỏ nhưng không khi nào ông chịu tự hạ mình phàn nàn hay xin tăng lương. Vì đời sống quá kham khổ, khí hậu ở đảo lại khắc nghiệt, cộng với nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, bà nội tôi và Hoàng phi Mai Thị Vàng đã xin được hồi hương. Từ bấy, cha tôi sống một mình nơi đất khách quê người.

Cũng cần nói thêm rằng, tuy cùng bị lưu đày với vua cha Thành Thái ở đảo Réunion nhưng cha tôi không sống cùng ông bởi những bất đồng không giải quyết được trong quan điểm cứu nước. Đó là mâu thuẫn lớn nhất của hai cha con. Thế nhưng không vì thế mà tình cảm của cha tôi dành cho vua cha Thành Thái bị sứt mẻ. Ông luôn dạy chúng tôi phải biết hiếu lễ, ngoan ngoãn với ông nội. Hàng tuần, ông đều dặn mẹ tôi nấu súp mang sang biếu cha.

Mẹ tôi tên là Fernande Aniter, sinh năm 1913 trong một gia đình người Pháp nhưng đã sinh sống lâu đời ở đảo Réunion bằng việc mở một tiệm cơm bình dân chuyên phục vụ cho học sinh và những người có thu nhập thấp. Cha tôi sống độc thân trong một căn nhà nhỏ, vừa học tập trau dồi kiến thức, vừa mở cửa hàng sửa chữa vô tuyến điện để kiếm sống. Ông là người rất ham mê máy móc kỹ thuật, nhất là kỹ thuật truyền tin. Vì vậy, chính quyền đảo La Réunion đã đặt ông thiết lập một thệ thống truyền tin đầu tiên trên đảo thời bấy giờ.

Do khoản thu nhập và trợ cấp eo hẹp nên ông không có điều kiện để thuê người giúp việc. Ông ăn mặc và sinh hoạt giản dị như bao người dân bình thường khác ở đảo. Ông không biết tự nấu nướng. Với thu nhập khiêm nhường của mình, ông thường qua quán cơm tháng của gia đình mẹ tôi ăn cơm rồi dần trở thành khách quen. Từ đó, ông nảy sinh tình cảm với mẹ tôi, khi ấy bà mới tròn 15 tuổi.

Mẹ tôi tuy kém cha tôi 13 tuổi nhưng hai người lại rất tâm đầu ý hợp. Ở đảo Réunion, cha tôi dành rất nhiều thời gian để học luật và các tri thức khác. Ông cũng là người có năng khiếu âm nhạc đặc biệt. Ông chơi violon rất giỏi nên có chân trong ban nhạc đại hòa tấu tại Saint Denis. Không những thế, ông còn viết văn, nuôi ngựa và đua ngựa. Ông đã từng giật giải nhất trong cuộc thi đua ngựa lớn nhất toàn đảo. Ở trường đua ngựa, ông và Hoàng thân Vĩnh Chuôn, tuy người nhỏ con (cao 1m51, nặng 41kg) lại là hai nài kiện tướng, quần chúng thường hoan hô cha tôi ông là “Vua Tàu”. Ông học đánh kiếm và đánh rất giỏi. Ông chú trọng về nghệ thuật quân sự. Trong suốt thời kỳ chiến tranh thế giới, ông luôn găm bản đồ trên tường tiệm hàng để theo dõi chiến sự. Nhiều lúc, ông hùng hồn giải thích chiến trận làm lóa mắt cử tọa kính cẩn ngồi nghe.

Say mê văn chương Pháp, ông đọc rất nhiều sách, sáng tác thơ ca. Ông có nhiều bài được đăng trên tờ báo Le Peuple (Dân chúng), Le Progrès (Tiến bộ) với bút danh Georges Dry. Ông cũng thích viết văn xuôi lãng mạn. Trong bài Tiếng nói của vạn vật, ông bắt đầu với những câu: “Tôi thích tiếng thì thầm của cơn gió nhẹ khi nó hát hay khóc trong các cành cây. Tôi thích những lời tâm sự du dương của gió với cây trong rừng, với sóng dưới biển, với sao trên trời. Nhưng hơn nữa, ru ngủ tôi, làm tôi say mê, khoái trá là tiếng gọi của đại dương, lời rên rỉ vạn năng vang lên trong cảnh đêm im lặng như một bài tụng ca vô tận”. Rồi ông kết luận: “Tiến lên Thượng đế, đấy là mục đích đời bạn và của mọi đời sống khác. Bạn nên học yêu thuơng, đấy là bí quyết của hạnh phúc. Bạn nên học đau khổ, đấy là bí quyết của sự thanh lọc, của cuộc tiến lên ánh sáng. Đau khổ là chị em của vui sướng. Hai mặt giữ thăng bằng, bổ sung nhau và tô điểm nhau. Bạn nên học tự biết mình và chế ngự những sức mạnh tiềm tàng và ẩn kín. Từ đấy, bạn khám phá ra bí mật của Vũ trụ và những quyền lực đã chi phối. Sự huy hoàng của sự nghiệp thần thánh së tiết lộ ra ngay trong lòng bạn và trong mọi mặt”. Trong bài Variations sur une lyre brisée (Những biến tấu của một cây đàn gẫy vỡ) được Giải nhất văn chương của Viện Hàn lâm Khoa học và Văn chương La Réunion (1924), ông tâm tình: “Ở một vài đầu óc, nếp cũ hoài nghi, thói quen mỉa mai ngay cả chính mình, làm khó mọi chi phối xúc cảm. Trong cuộc phòng vệ có đạo đức, hoài nghi là mang một vỏ sắt, mỉa mai là vận dụng một cái khiên. Nhưng ta không thể luôn được bảo vệ; đến một lúc, khi ta tưởng được an toàn, khi ta lột bỏ áo giáp mà ta đã kiên cường chịu đựng với một nụ cười, đấy là khi ta rất nhạy cảm với một vết châm cũng như với một cái vuốt dù nhỏ nhẹ”.

Ông là thành viên Hội khoa học, văn chương và nghệ thuật La Réunion. Bà Hội trưởng Eléonora Revest đánh giá ông là một người có học thức, một nhà diễn thuyết hùng biện. Chính trí tuệ, sự thông minh, hiểu biết của ông đã chinh phục được mẹ tôi, khi ấy là thiếu nữ Fernande Antier nhan sắc nổi tiếng cả phố. Năm 1925, cha tôi có gửi cho Hội đồng hoàng tộc một bức thư kèm đơn ly dị và xin Hội đồng hoàng tộc chứng nhận để bà Mai Thị Vàng đi lấy chồng khác, lúc này bà 27 tuổi. Nhưng bà Vàng một lòng thủ tiết cho đến cuối đời và thường ngâm: “Gìn vàng giữ ngọc cho hay/ Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời”.

Sau khi gửi đơn ly hôn về cho Hoàng phi Mai Thị Vàng được 3 năm, cha tôi kết hôn với mẹ tôi. Đám cưới diễn ra giản dị tại đảo Reunion, với sự góp mặt của người dân trên đảo và cả ông nội tôi, Cựu hoàng Thành Thái. Tuy đám cưới đã diễn ra nhưng vì Hoàng phi Mai Thị Vàng không đồng ý ly hôn nên cuộc hôn nhân của cha mẹ tôi vẫn chưa được nhà thờ công giáo ở đảo Reunion công nhận. Chính vì thế mà sau này, bốn anh em chúng tôi đều mang họ mẹ. Phải mãi về sau, khi cha tôi qua đời năm 1946, Tòa án ở Reunion mới xem xét lại và đồng ý để chúng tôi chuyển sang họ cha.

Cha mẹ tôi sinh hạ được 8 người con nhưng chỉ nuôi được 4 người. Đó là chị gái lớn, Hoàng nữ Rita Suzy Georgette Vĩnh San (6/8/1929); Hoàng tử Guy Georges Vĩnh San (31/1/1933); Hoàng tử Yves Claude Vĩnh San (8/4/1934) và tôi. Lúc còn nhỏ, anh em chúng tôi rất sợ cô Lương Nhàn bởi cô rất nghiêm khắc. Anh Georges thường hay bị đòn roi của cô. Nhưng cha tôi còn nghiêm khắc hơn. Ngày ngày, cha tôi làm việc ở căn phòng nhỏ tầng 1, nơi ông mở một tiệm sửa chữa máy móc cho cư dân trên đảo, kiếm tiền nuôi vợ con. Tiệm có tên là La Radio Laboratoire Vinh San. Anh em chúng tôi không bao giờ dám bén mảng đến căn phòng đó. Bữa ăn cơm, chúng tôi cũng không dám nói chuyện, cười đùa. Cha tôi rất ít nói. Mỗi lần kể về người, trong tôi vẫn còn lưu dấu một nỗi buồn u uẩn của một con người, một vị vua sa cơ thất thế phải sống kiếp lưu đày.

Cha tôi không có một ưu đãi vật chất nào trong những tháng ngày trên đảo. Nơi ở của ông không có lò sưởi, vòi nước tắm, thậm chí cả bồn rửa mặt. Nhưng ông vẫn vui vẻ sống. Ông ít giao thiệp với người Pháp. Chính quyền hoàn toàn quên bỏ ông. Ông chỉ giao du với một nhóm bạn bè. Ông thích trèo núi, đi câu, không ngần ngại bắt chuyện với những người ngồi câu bản xứ, phần nào cũng giúp khuây khỏa nỗi nhớ thuở “Chiều chiều trước bến Văn Lâu. Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm”. Nghiêm khắc nhưng cha tôi rất yêu thương vợ con, yêu thương một cách kín đáo. Khéo tay, tự ông làm đồ chơi cho chúng tôi như những hình tượng trong truyện Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn. Vì thế, anh em chúng tôi vẫn gọi ông bằng cái tên thân mật Dede (Bố), biến âm của những danh từ Âu Mỹ Daddy, Papa. Ngoài việc trao đổi sinh hoạt bình thường trong gia đình, ông rất ít khi thổ lộ tâm tư tình cảm, nhất là chuyện đất nước, chính sự với vợ con. Ông không bao giờ nói chuyện về Việt Nam với những người dân trên đảo Reunion và kể cả với vợ mình. Song cũng có đôi lần ông thổ lộ với mẹ tôi rằng: ông lúc nào cũng khao khát thoát khỏi Reunion, thoát khỏi tay người Pháp để trở về Việt Nam, tìm cách cứu nước.]

chuyenxua.net biên soạn

Viết một bình luận