Những từ “kỵ húy” của người Nam bộ xưa

Xưa nay, ở vùng đất miền Trung trở về trong hay xuất hiện những từ “kỵ húy” trong lời ăn tiếng nói hàng ngày mà ít người để ý đến. Đó là những từ kỵ húy chủ yếu liên quan tới vua chúa triều Nguyễn, từ khi chúa Nguyễn Hoàng vào Nam gầy dựng xứ Đàng Trong.

Một số thí dụ:

Âm chính/Âm trại:

  • Lĩnh/Lãnh
  • Chu/Châu
  • Thụ/Thọ
  • Thư/Thơ
  • Phúc/Phước
  • Ánh/Yên, Yếng, Ảnh
  • Chủng/Chưởng
  • Đang/Đương
  • Đảm/Đởm
  • Hoa/Huê
  • Thật/Thiệt
  • Chính/Chánh
  • Tông/Tôn
  • Tuyền/Toàn
  • Hằng/Thường
  • Hạo/Hiệu
  • Nhậm/Nhiệm
  • Hồng/Hường
  • Thì/Thời
  • Chân/Chơn
  • Đường/Đàng
  • Cảnh/Kiểng
  • San/Sơn

Trong khi người dân Xứ Đàng Trong tha hồ gọi tên húy của các vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, thì họ bị quy định hết sức ngặt nghèo trong viết hay nói các từ trọng húy của vua chúa nhà Nguyễn. Vì vậy trong ngôn ngữ xuất hiện những từ rất oái oăm:

  • Kỷ ngươn, Rằm thượng ngươn, thay vì kỷ nguyên, rằm thượng nguyên (để kiêng tên chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên).
  • Can đởm, thay vì can đảm, đởm lược thay vỉ đảm lược (kiêng tên vua Minh Mạng Nguyễn Phúc Đảm).
  • Thới bình, tên một huyện ở Cà Mau, thay vì Thái bình (kiêng tên chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Thái).
    Các tên thôn (hiện nay là xã) như Thới Tam, Thới Tứ, Tân Thới Nhứt, Tân Thới Nhì, Xuân Thới Đông, Xuân Thới Sơn… thuộc khu vực Hóc Môn Sài Gòn, là tuân theo sự kỵ húy đó.
  • Làng Tân Kiểng xưa (Bây giờ còn Đình Tân Kiểng và chợ Tân Kiểng ở Phường 2, quận 5, Sài Gòn) vốn có tên là Tân Cảnh (trùng tên húy Hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh, con cả vua Gia Long).
  • Từ Hoàng được đổi thành Huỳnh vì kỵ tên của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng.
  • Gọi màu hồng thành màu hường, nói nhiệm chức thay vì nhậm chức để tránh tên Nguyễn Phúc Hồng Nhậm của vua Tự Đức. (Ngô Thời Nhiệm thay cho Ngô Thì Nhậm, Ngô Tòng Châu thay cho Ngô Tùng Chu cũng vì vậy. (Thì là tên thuở nhỏ của vua Tự Đức, Chu là tên Chúa Quốc Nguyễn Phúc Chu).
  • Người miền Nam quen nói Tôn giáo, thay vì tông giáo để kiêng tên vua Thiệu Trị Nguyễn Phúc Miên Tông. Cũng vì tránh tên ông vua thứ ba của nhà Nguyễn này mà tất cả các chữ Tông đều được đổi thành Tôn: Lý Thánh Tôn, Trần Nhân Tôn, Lê Trung Tôn… Chẳng những thế, một dòng họ hoàng tộc, cũng vốn phải đọc là “Tông Thất”, nhưng vì kiêng húy chữ Tông này nên lại đọc thành “Tôn Thất”.

Người miền Nam còn nói cúng kiếng thay vì cúng kính, kiếng lễ, thay vì kính lễ, để kiêng tránh tên Nguyễn Hữu Kính, tên húy của Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, một danh tướng dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, có nhiều công lao hiển hách trên gần suốt cả đất nước xứ Đàng Trong. Tên ông là Nguyễn Hữu Kính, nhưng do kiêng húy, người ta nói trại ra là Cảnh.

Khoảng một trăm năm sau, vì kiêng tên hoàng tử Cảnh, người ta lại gọi trại một lần nữa từ Kính thành Kiếng. Vì vậy, Nguyễn Hữu Cảnh chỉ là tên kỵ húy chớ không đúng tên thật. Nguyễn Hữu Kính từng thành lập Trấn Thuận Thành, hiện nay là vùng đất từ tỉnh Bình Thuận đến Ninh Thuận và trấn giữ Dinh Bình Khang, nay là vùng đất từ tỉnh Ninh Thuận ra đến Khánh Hòa; vào năm 1698 ông được chúa Nguyễn Phúc Chu cử vào miền Nam củng cố và mở rộng đất Sài Gòn Gia Định. Tuy không phải mà một vị chúa, nhưng ông từng làm quan trấn nhậm, được nhân dân ngưỡng mộ suốt từ miền Trung vào đến miền Nam, nên họ tự kiêng tránh tên húy của ông.

Người miền Nam nói Sơn là núi mà không nói San, vì đó là tên vua Duy Tân Nguyễn Phúc Vĩnh San. Sau năm 1975, nhiều người miền Nam bắt chước người miền Bắc nói “phản ánh” thay vì trước đó họ nói “phản ảnh” (ảnh dấu hỏi) để tránh tên vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh. Ngay chữ Phúc trong tên các vua chúa nhà Nguyễn cũng phải nói trại đi là Phước. Trước kia, miền Nam có các tỉnh Phước Long, và Phước Tuy (được chánh phủ VNCH thành lập năm 1956) mà theo sách Phương Đình Dư Điạ Chí vốn là Phúc-Long- phủ và Phúc-Tuy- phủ thuộc tỉnh Biên Hòa.

Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước có một bài hát Lên Đàng. Đàng là từ người miền Nam nói trại từ Đường (tên vua Đồng Khánh – Nguyễn Phúc Ưng Đường). Chữ Đường trong Thiên Đường cũng được nói trại thành Thiên Đàng.

Nhiều người miền Nam tầm tuổi sáu, bảy mươi từng biết tên nữ tướng Phàn Lê Huê (Fan Lihua, mà chữ Tàu viết là 樊梨花– Phàn Lê Hoa), vợ của Tiết Đinh San (Xue Dinhshan), cũng có chỗ giữ húy gọi là Tiết Đinh Sơn, trong tiểu thuyết dã sử Tàu về thời nhà Đường chinh phục nước Tây Lương (Xi Liang). Huê là một từ nói trại để kiêng húy từ Hoa, vì đó là tên bà Hồ Thị Hoa, chánh hậu của vua Minh Mạng. Từ Hoa không chỉ được nói trại là Huê mà còn được thay bằng một từ khác là Bông. Theo cụ Vương Hồng Sển trong Sài Gòn Năm Xưa, cái Cầu Bông trên đường Đinh Tiên Hoàng bắc qua Kênh Nhiêu Lộc ở quận 1 Sài Gòn vốn có tên là Cầu Hoa.

Các từ tên húy khác chỉ cần tránh bằng cách nói trại đi, nhưng từ Hoa này thì lôi thôi hơn. Cầu Hoa thành Cầu Bông, tỉnh Thanh Hoa bị đổi thành tỉnh Thanh Hóa, nhưng chợ Đông Hoa ở đất thần kinh thì lại được đổi thành chợ Đông Ba! Người Quảng Nam đến nay vẫn còn nhớ câu ca dao: “Thủng thỉnh lượm bông ba rơi / Lượm cho có cách hơn người trèo cao” (ba = hoa)

Những từ nói trại vì kỵ húy còn nhiều nữa: Võ thay cho Vũ, Đờm thay cho Đàm, Thời thay cho Thì, Tùng thay cho Tòng, Nguyệt Quới thay cho Nguyệt Quế, Quới nhơn thay cho quý nhân, vân vân. Chúng là một dạng từ biến âm cưỡng bức được dùng phổ biến, chủ yếu trong Miền Nam, tức Xứ Đàng Trong, từ Quảng Trị, nhưng rõ nhất là từ Huế, trở vào. Sở dĩ người miền Bắc “miễn nhiễm” với sự kỵ húy này là do hoàn cảnh lịch sử: “Nước” Đàng Ngoài chẳng việc gì phải nghe theo luật lệ của “nước” Đàng Trong. Sau khi vua Gia Long thống nhất đất nước, những tên húy kiêng cử của nhà Nguyễn đem áp dụng cho dân miền Bắc mà đa số còn hoài vọng nhà Lê thì sự tuân phục cũng chẳng được bao nhiêu. Tiếp đó miền Bắc được đặt dưới sự bảo hộ của người Pháp, nên người ta chẳng thấy cần thiết phải sợ phạm húy với vương triều nhà Nguyễn nữa.

Tác giả: Thiếu Khanh (chimviet.free.fr)

Xem thêm

Comments

Ghi ý kiến của bạn:

Please enter your comment!
Please enter your name here

Xem thêm

Tuyển chọn hình ảnh Công Trường Lam Sơn của Sài Gòn xưa

Những cái tên như Công trường quốc tế, công trường Mê Linh, công trường Diên Hồng, công trường Lam Sơn... vốn rất quen thuộc với người Sài Gòn xưa. Đó là những khoảng đất công nhỏ hơn nhiều so với công viên, nhưng cũng là mảng xanh đủ để...

Cuộc đời và sự nghiệp của Giáo sư – Nhạc sĩ Trần Văn Khê

Cố ɡiáᴏ sư - nhạᴄ sĩ Trần Văn Khê là nhà nɡhiên ᴄứu văn hóa, âm nhạᴄ ᴄổ truyền nổi tiếnɡ nhất ᴄủa Việt Nam thời ᴄận đại. Ônɡ là nɡười Việt Nam đầu tiên đậu tiến sĩ nɡành âm nhạᴄ họᴄ tại Pháp, là ɡiáᴏ sư tại Đại...

Cuộc sống hiện tại của ca sĩ Như Quỳnh ở tuổi ngoài 50

Nhạc sĩ Trúc Hồ từng nhận xét rằng Như Quỳnh là ca sĩ mà phải nửa thế kỷ mới xuất hiện một lần. Cô không chỉ có giọng hát đẹp, mà dáng vóc cũng đẹp xuất sắc, lại giỏi về múa, ăn ảnh, bắt camera, trình diễn rất tự...

Vấn đề trồng và “chặt bớt” cây xanh trên đường phố Sài Gòn hơn 100 năm trước

Ngay trong những năm đầu chiếm được Sài Gòn và bắt đầu xây dựng thành phố này theo phong cách phương Tây, các đô đốc Hải quân Pháp đã bắt đầu cho trồng hàng loạt cây me ven các con đường kể từ những năm 1863-1865, khi mà các...

Nghe lại giọng hát “rặt Nam Bộ” của nghệ sĩ Trần Văn Trạch trong các bài nhạc hài hước và bài tình ca

Trong tân nhạc Việt Nam, hầu hết các ca khúc đều được ca sĩ hát với giọng Bắc. Ngay cả làng nhạc ở miền Nam, chỉ ngoại trừ các bài âm hưởng dân ca Nam Bộ thì hầu hết các bài hát (kể cả nhạc vàng) đều được các...

Hồi ký Trịnh Công Sơn: Tôi đã mơ thấy chuyến đi của mình

Càng sống nhiều ta càng thấy cái chết dễ dàng đến với bất cứ một ai. Chết quá dễ mà sống thì quá khó. Hôm qua gặp nhau đấy, ngày mai lại mất nhau. Sống thì có hẹn hò hôm nay hôm mai. Chết thì chẳng bao giờ có...

Nhan sắc thời trẻ của Như Quỳnh qua loạt ảnh và video ca nhạc khi còn ở trong nước

Với đa số khán giả yêu nhạc, Như Quỳnh được biết đến đầu tiên với hình ảnh trẻ trung xinh đẹp trong ca khúc nhạc Nhật lời Việt nổi tiếng Người Tình Mùa Đông vào mùa Giáng Sinh năm 1994. Với ca khúc này, Như Quỳnh trở thành một...

Nghe lại giọng hát của Năm Phỉ – Nghệ sĩ kỳ tài của sân khấu cải lương 100 năm trước

Là bậc kỳ tài của sân khấu cải lương, nghệ sĩ Năm Phỉ từng sang Pháp diễn và nhận được sự tán thưởng nhiệt liệt, nhưng đường tình duyên của bà lại nhiều đắng cay. Nghe giọng hát của bà Năm Phỉ Nghệ sĩ Năm Phỉ tên thật là Lê Thị...

Hoàn cảnh sáng tác ca khúc bất hủ Đôi Mắt Người Sơn Tây (Phạm Đình Chương – thơ Quang Dũng)

Nhạc sĩ Phạm Đình Chương là 1 trong những tên tuổi lớn nhất của làng nhạc Sài Gòn kể từ thập niên 1950. Ngoài những ca khúc với rất nhiều đề tài và đã trở thành bất tử như Xóm Đêm, Hội Trùng Dương, Ly Rượu Mừng, Thuở Ban...

Những hình ảnh về Ông Đồ ngày xưa – Phai tàn một thời liệt oanh

Năm 1936, nhà thơ Vũ Đình Liên đã viết một bài thơ nổi tiếng về nghề "viết chữ, câu đối" của những ông đồ trong mỗi dịp Tết với những câu thơ vô cùng xúc động: Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực Tàu, giấy đỏ Bên phố...