Hệ thống giáo dục và các chứng chỉ, bằng cấp tại các trường tiểu học, trung học Việt Nam thời Pháp thuộc

Thời Pháp thuộc, nếu vượt qua 5-6 năm tiểu học, 3-4 năm trung học (cấp hai), học sinh người Việt sẽ được cấp bằng thành chung, nói thông thạo tiếng Pháp, am hiểu lịch sử thế giới.

Ngôi trường được thành lập đầu tiên ở Việt Nam không phải trường công, mà là trường tư mang tên Adran, do giáo hội công giáo tự xây dựng chương trình giáo dục, thêm cả học đạo, mệnh danh là Pháp – Việt. Sau đó các sư huynh thiện giáo được mời đến để điều hành trường và chuyển thành công lập. Cơ sở của trường Adran ngày nay là 2 trường Võ Trường Toản và Trưng Vương ở đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thời gian này, ngoài trường Adran thì có 2 trường dòng khác cùng được thành lập ở Sài Gòn là Taberd (nay là trường Trần Đại Nghĩa) và trường soeur Saint Paul de Chartres (một phần ngày nay là Đại Học Sài Gòn ở Tôn Đức Thắng – Nguyễn Hữu Cảnh).

Trường Adran
Trường Taberd
Trường Saint Paul de Chartres

Tiếp đó, loạt trường đặc biệt cho thiếu niên được mở tại các thị trấn Cần Lố, Sóc Trăng, Gò Công, Tân An, Rạch Giá, Cần Giuộc, đều do người Pháp làm giám đốc. Đến ngày 17/11/1874, nghị định tổ chức ngành học lần đầu quy định cấp trung học (enseignement secondaire) với thời gian học ba năm. Hoàn thành 5-6 năm tiểu học, học sinh sẽ lên bậc trung học.

Từ cuối thế kỷ 19 cho đến năm 1954, hệ thống giáo dục Việt Nam trong thời Pháp thuộc chủ yếu là chương trình Pháp – Việt Franco-Indigènes tại đa số các trường phổ thông, song song đó còn có chương trình chính quốc Pháp, áp dụng cho một số trường được mở ra để trong thời gian đầu phục vụ người Pháp và những người có quốc tịch Pháp (Thời gian sau đó thì mở rộng cho tất cả học sinh, nhưng vẫn là học chương trình Pháp).

Các trường dạy chương trình Pháp là trường Chasseloup Laubat Sài Gòn (thành lập năm 1874, nay là trường Lê Quý Đôn ở Sài Gòn), trường trung học Albert Sarraut ở Hà Nội (thành lập năm 1908, nay là trường Trần Phú – Hoàn Kiếm), và trường Yersin ở Đà Lạt (thành lập năm 1927, nay là trường Cao đẳng Sư phạm). Cả 3 trường này bắt đầu cũng được hình thành từ bậc tiểu học trước rồi sau mới đến bậc Tú Tài.

Ngoài ra ở Sài Gòn còn có trường Marie Curie được thành lập năm 1915 dạy chương trình Pháp.

Trường Chasseloup Laubat
Trường Albert Sarraut
Trường Yersin
Trường Marie Curie
Bằng Tiểu học yếu lược (Tiểu học) chương trình Pháp – Certificat d’études primaires élémentaires” (CEPE) – cấp cho cô học trò người Pháp Colette Parlet ở Cái Bè, Nam Kỳ, bằng cấp chính quốc Pháp của Département du Var – Academie D’Aix

Những trường kể trên là trường Pháp, còn về chương trình Pháp-Việt-Franco-Indigène, là hệ thống giáo dục phổ thông cho người Việt, có một số trường nổi tiếng như trường trung học Collège de Mytho ở Mỹ Tho (thành lập năm 1879, nay là Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu), Collège de Cantho (thành lập năm 1917, nay là trường THPT Châu Văn Liêm) trường Quốc Học Huế (thành lập năm 1896), trường trung học Bảo Hộ (Collège du Protectorat), tức trường Bưởi Hà Nội (thành lập năm 1908, nay là trường THPT Chu Văn An). Những trường này khi mới mở chỉ có bậc tiểu học, đến vài chục năm sau mới có 2 trường Quốc Học Huế và trường Bưởi giảng dạy bậc Tú Tài.

Collège de Mytho
Collège de Cantho
Trường Quốc Học Huế
Trường Bưởi Hà Nội

Thống Đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers nhiệm kỳ 1879-1882 là người đầu tiên người chú trọng mở mang giáo dục Pháp-Việt, đã cho thành lập trường trung học đầu tiên và duy nhất cho cả Miền Nam hồi cuối thế kỷ 19, lấy tên Collège de Mytho. Trường bắt đầu chỉ có hai năm học sau đó tăng lên bốn năm đầu thế kỷ 20 được đổi tên là Collège Le Myre de Vilers.

Hệ thống Bằng cấp, chứng chỉ thời Pháp thuộc trước 1954

Chương trình Pháp-Việt gồm có ba bậc học: Tiểu học, Trung học và Đại học. Ở bậc Tiểu học, lớp khởi đầu là lớp Năm hay lớp Đồng ấu (Cours Enfantin), kế đến là lớp Tư hay lớp Dự bị (Cours Préparatoire), lớp Ba hay lớp Sơ đẳng (Cours Elémentaire). Cả ba lớp này thuộc cấp Sơ học tiểu học, học xong, học sinh thi lấy bằng Sơ học Yếu lược (Certificat d’Etudes Primaire Elémentaire).

Sau cấp Sơ học là cấp Tiểu học gồm ba lớp: lớp Nhì năm thứ nhất (Cours Moyen de 1ère Année), lớp Nhì năm thứ hai (Cours Moyen de 2è Année), và lớp Nhất (Cours Supérieur). Xong lớp Nhất, học sinh thi lấy bằng Tiểu học (Certificat D’Etude Primaire Complémentaire Indochinois, viết tắt là C.E.P.C.I).

Sau bằng Tiểu học, học sinh phải học lên bốn năm nữa rồi thi bằng Cao Đẳng Tiểu học, tiếng Pháp là Diplôme d’Etudes Primaire Superieur Franco-Indigènes, còn gọi là Brevet primaires, người Việt gọi là bằng Thành Chung, bằng Diplôme.

Ai thi đậu bằng Thành Chung thì mới được học lên bậc Trung học – còn gọi là bậc Tú Tài. Bậc này gồm ba năm, năm thứ nhất, năm thứ hai – Bac 1ere và năm thứ ba – Bac 2ème

Kể từ cuối thập niên 1920, chương trình thi bậc Tú Tài đã được Nha Học chính Đông Pháp quy định gồm hai kỳ thi cách nhau một năm, kỳ thi lấy bằng Tú Tài I hay Tú Tài bán phần (Baccalauréat Première Partie) và kỳ thi Tú Tài II hay Tú Tài toàn phần (Baccalauréat Deuxième Partie, gọi tắt là Bac). Người dự thi Tú Tài toàn phần bắt buộc phải có bằng Tú tài bán phần.

Tú Tài toàn phần Pháp-Việt còn gọi là Certificat de Fin d’Etudes Secondaire Franco-indigènes.

Tú Tài toàn phần Pháp chính thống còn có tên là Diplôme du Baccalaureat de l’enseignement du second degré.

Từ những năm đầu thế kỷ 20, với việc cải cách giáo dục, việc đưa chữ quốc ngữ vào tiểu học đã giúp trẻ nhanh chóng biết đọc, biết viết so với việc học chữ Hán khó nhớ. Chương trình học bao gồm cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Bên cạnh các trường phổ thông, Pháp còn lập ra trường dạy nghề để học sinh khi học xong tiểu học có thể chọn học nghề.

Tại Sài Gòn, hai trường trung học theo chương trình Pháp-Việt đầu tiên được thành lập là trường Áo Tím – Gia Long và trường Petrus Trương Vĩnh Ký.

Trường L’école des Jeunes Filles Indigènes (được gọi là trường Áo Tím, sau là trường nữ Gia Long) xây dựng xong năm 1915, được Toàn Quyền Ðông Dương Ernest Nestor Roume và Thống Ðốc Nam Kỳ Courbeil cắt băng khánh thành và khai giảng khóa đầu tiên. Trường dạy hai cấp: Sơ học và Tiểu học.

Trường L’école des Jeunes Filles Indigènes (trường nữ Gia Long)

Cuối năm Sơ học, học sinh phải thi lấy chứng chỉ Sơ học yếu lược (Certficat d’Etudes Primaires Elementaires Franco-Indigènes), sau đó học thêm ba năm thi bằng Tiểu học yếu lược. CEPCI (tức Certificat d’Études Primaire Complémentaire Indochinoise). Năm đầu tiên chỉ có 42 nữ học sinh trong bộ đồng phục áo dài tím. Tên trường Áo Tím bắt đầu từ đó.

Ðến tháng 9 năm 1922, trường được nâng lên cấp Cao đẳng tiểu học (tương đương với bậc Trung Học Ðệ Nhứt Cấp sau này). Toàn Quyền Albert Sarraut khai giảng lớp đầu tiên của bậc Cao đẳng tiểu học và đổi tên trường là Collège des Jeunes Filles Indigènes.

Thời Nhật trở lại Đông Dương, năm 1940 , trường đổi tên thành trường trung học Gia Long. Tên trường tồn tại mãi đến sau năm 1975 với tên mới Nguyễn Thị Minh Khai.

Cuối năm 1927, Thống Đốc Nam Kỳ B.de La Brosse ký nghị định thành lập trường trung học Pháp Việt mang tên “Petrus Ký trung-học đường”.

Tiền thân của trường Petrus Ký có tên là Collège de Cochinchine (một phân hiệu tạm thời của Collège Chasseloup Laubat (hiện nay là Lê Quý Đôn), dành cho học sinh người Việt Nam

Ngày 11-8-1928, khi trường mới xây dựng xong ở vị trí ngày nay, trường khởi đầu chỉ dạy bậc Cao đẳng tiểu học, mang tên Lycée Pétrus Trương Vĩnh Ký – Petrus Ký trung học đường – khai giảng năm học đầu tiên tháng 9 năm học 1927-1928, với 4 lớp học với hơn 200 học sinh chuyển qua theo học chương trình Pháp và Pháp Việt từ trường Collège de Cochinchine.

Vào năm 1953, trường Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký là ngôi trường trung học công lập duy nhứt của Sài Gòn dành cho nam sinh, dạy về văn hóa của chương trình Trung học Việt Nam.

Cổng trường Petrus Trương Vĩnh Ký trên đường Cộng Hòa được xây dựng bằng gạch kiên cố với 2 cột cao độ 4m trên có khắc 2 câu chữ Hán “Khổng Mạnh Cương Thường Tu Khắc Cốt, Tây Âu Khoa Học Yếu Minh Tâm. Sau 1975, trường có tên Lê hồng Phong trên đường Nguyễn Văn Cừ.

Một số hình ảnh của chứng chỉ, văn bằng:

Bậc Tiểu học – Cao đẳng Tiểu Học

Ngày xưa, những người tốt nghiệp với bằng Tiểu Học được xem có học thức khá, nói tiếng Pháp khá thông thạo, thường làm “thầy thông thầy ký”. Những người có bằng Cao Đẳng Tiểu học được xem có trình độ học thức cao, thường đảm nhiệm những vai trò quan trọng trong công sở.

Văn bằng Tiểu Học cấp ở Nam Kỳ thuộc địa Cochinchine 1933
Văn bằng Tiểu Học cấp ở Bắc Kỳ Bảo Hộ – Protectorat du Tonkin 1929
Văn Bằng Tiểu Học cấp ở Bắc Kỳ Bảo Hộ – Protectorat du Tonkin 1934
Bằng Sơ Đẳng Tiểu Học hay Tiểu Học Yếu Lược 1915 – Certificat d’Etudes Primaires –Franco Indigènes cấp thời Đông Pháp – Liên Bang Đông Dương -Bắc Kỳ Bảo Hộ (Protectorat du Tonkin). Đây không phải là bằng Sơ Học Yếu Lược – Certficat d’Etudes Primaires Elementaires Franco-indigènes
Văn bằng Tiểu học yếu lược bản xứ Certificat d’Etudes Primaires – Franco Indigènes, thời Đông Pháp – cấp bởi Thủ Hiến Trung Kỳ Bảo Hộ (Protectorat de L’Annam)
Bằng cấp tiểu học bổ túc cấp bởi bộ trưởng Giáo Dục của Chính Phủ Đại Nam dưới thời vua Bảo Đại năm 1939. Bằng này đòi hỏi người tốt nghiệp học thêm một năm sau khi có bằng Tiểu Học ̣để đi dạy học hoặc đãm nhiệm trọng trách cao hơn
Văn bằng Tiểu Học bổ túc cấp ở Nam Kỳ thuộc địa Cochinchine thập niên 1940

Bậc Trung Học

Thời xưa, học xong Thành Chung là đã có thể đi dạy học được. Bậc trung học lúc này có bốn lớp gồm đệ nhất niên (tương đương lớp 6 ngày nay), đệ nhị niên (lớp 7), đệ tam niên (lớp 8) và đệ tứ niên (lớp 9). Tốt nghiệp bậc học này, học sinh được cấp bằng thành chung.

Mỗi tuần học sinh có hơn 27 giờ lên lớp, hầu hết học bằng tiếng Pháp; tiếng Việt và Hán không quá ba giờ. Học sinh phải học lịch sử và địa lý Pháp rất kỹ, học một số nước khác sơ lược, học về các công trình của Pháp ở Đông Dương.

Chương trình thành chung Pháp – Việt khó và nặng, học sinh phải theo đủ 11 môn như Pháp văn, luận lý, lịch sử, Việt văn – Hán văn, địa lý, toán học, vật lý, hóa học, tập viết chữ đẹp, vẽ theo hình mẫu và tìm hiểu công nghiệp.

Đơn cử, môn lịch sử năm thứ nhất ôn nhanh lịch sử Việt Nam từ nguyên thủy tới triều Nguyễn và lịch sử các địa phương khác. Lịch sử Pháp, học sinh phải nắm được thời tiểu quốc Gaule và thời trung cổ.

Năm thứ hai, chương trình gồm lịch sử Việt Nam thế kỷ 19, cuộc bảo hộ của Pháp, luận đàm về sử Pháp và thế giới, các phát minh lớn, thời Phục hưng, các cuộc chiến tranh về tôn giáo…

Đến năm thứ tư, môn lịch sử bao quát khắp thế giới, trải từ Âu sang Á với đủ mọi ngóc ngách đời sống, văn hóa, khoa học. Khó như vậy nên thời đó, bằng tốt nghiệp thành chung được coi ngang hàng với bằng tú tài khi xin việc vào các vị trí trung cấp hoặc có thể học tiếp cao đẳng, đại học.

Năm 1925, Pháp ban hành nghị định mới, bằng thành chung không còn giá trị tương đương với tú tài. Học sinh muốn đạt bằng tú tài phải học thêm ba năm (chương trình 12 năm)

Văn bằng Diplôme D’Etudes Complimentaires-Franco-Indigènes- Tương đương bằng Brevet – Thành Chung – cấp cho học sinh theo hệ thống Giáo Dục Pháp Việt thời Liên Bang Đông Dương
Diplôme D’etudes Primaires Superieures-Cao đẳng Tiểu Học, còn gọi là bằng Thành Chung. Văn bằng cuối cùng này cấp bởi Toàn Quyền Đông Dương ngày 31/5/1945 sau khi Nhật chiếm Đông Dương ngày 9/3/1945

Bậc Đại học thời Pháp Thuộc

Theo đề án của Hội đồng cải cách giáo dục lần thứ nhất 1906 thì không có việc thành lập trường đại học, nhưng trước đòi hỏi của các sĩ phu yêu nước, Pháp thành lập trường đại học đầu tiên của Việt Nam là Đại học Đông Dương tuyển sinh viên từ những người tốt nghiệp trung học hoặc đỗ thi Hương, biết tiếng Pháp. Sinh viên khóa đầu tiên hầu hết là công chức đang làm việc ở cơ quan trung ương của chính quyền thực dân. Hoạt động được hơn một năm Đại học Đông Dương đóng cửa vì thiếu giáo sư chuyên nghiệp trong khi đó, trình độ người học quá thấp so với chương trình. Giáo dục đại học chỉ được cải thiện khi Toàn quyền Đông Dương ra nghị định quy chế chung về bậc cao đẳng năm 1918. Học sinh muốn vào trường cao đẳng phải có bằng thành chung hoặc bằng tú tài bản xứ, tuổi 18-25. Trong đơn xin học, sinh viên phải cam kết làm việc cho “Nhà nước bảo hộ” ít nhất 10 năm.

Đến năm 1945, toàn Đông Dương chỉ có Viện Đại học Đông Dương (nay là Đại Học Quốc Gia Hà Nội) bao gồm 10 trường thành viên: Cao đẳng Y khoa, Cao đẳng Nông nghiệp, Cao đẳng Thú y, Cao đẳng Công chính, Cao đẳng Địa chính, Cao đẳng Luật khoa, Cao đẳng Khoa học, Cao đẳng Mỹ thuật…

Bằng tốt nghiệp Đại học Khoa học Ứng dụng chuyên ngành Công Chánh do Chính phủ Đông Dương cấp năm 1926. Người được cấp bằng này đã theo học ở trường Cao Đẳng École des Sciences Appliquées Hà Nội (Cao đẳng Khoa học thuộc Viện Đại Học Đông Dương
Văn Bằng tốt nghiệp trường Cao Đẳng Sư Phạm thuộc Viện Đại Học Đông Dương, Hà Nội 1928

chuyenxua.net niên soạn
Nguồn: maivantran.com

Viết một bình luận