Đôi nét về hệ thống giáo dục bậc Tiểu học ở miền Nam thời kỳ 1955-1975

Trước khi nói về hệ thống giáo dục ở miền Nam các bậc học trong thời kỳ 1955-1975 với 3 nguyên tắc căn bản được ghi trong hiến pháp là: nhân bản, dân tộc, khai phóng, xin nói sơ qua về nền Giáo dục thời kỳ Quốc Gia Việt Nam từ năm 1948 đến 1955.

Vào năm 1948, một thỏa thuận giữa cựu hoàng Bảo Đại và tổng thống nước Pháp được xác lập để thành lập Quốc Gia Việt Nam thuộc Liên hiệp Pháp, quốc trưởng là Bảo Đại, thủ tướng đầu tiên là Nguyễn Phan Long, sau đó là Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm.

Dù Quốc Gia Việt Nam tuyên bố chủ quyền toàn bộ đất nước, nhưng quyền cai trị vẫn thuộc về Pháp, với Cao ủy Pháp kiểm soát tài chính, thương mại, quân sự và chính sách đối ngoại của Quốc gia Việt Nam.

Lĩnh vực Giáo dục thời kỳ này cũng thừa hưởng lại các chương trình học và cơ sở nhà trường mà Pháp đã xây dựng trước đó.

Bên dưới là hình ảnh bằng cấp Sơ Đẳng Tiểu Học – Bằng Tiểu Học (Certificat d’Etudes Primaires Franco-Indigenes) dưới thời thủ tướng Nam Việt – Trần Văn Hữu năm 1951. Người tốt nghiệp có thể làm thầy thông, thầy ký, nếu học thêm 4 năm nửa thì có thể dự thi bằng Cao Đẳng Tiểu Học, tương đương vói bằng Thành Chung, hay Trung Học đệ nhất cấp.

Bằng Tiểu Học do Nha Học Chính Nam Việt cấp 1952

Sau hiệp định Geneve năm 1954, từ vỹ tuyến 17 trở vào Nam thuộc quản lý của Quốc Gia Việt Nam, không lâu sau đó thủ tướng Ngô Đình Diệm phế truất quốc trưởng Bảo Đại để lên làm tổng thống, lập ra Đệ nhất Cộng Hòa.

Chương trình giáo dục của VNCH cũng dựa trên chương trình Pháp Việt để lại, cũng gồm ba bậc:

Tiểu học: 5 năm, gồm lớp năm, tư, ba, nhì và nhất. Cuối lớp nhất có kỳ thi lấy bằng tiểu học.

Trung học: 7 năm gồm hai cấp Trung học Đệ Nhất Cấp gồm các lớp Đệ Thất, Lục, Ngũ và Tứ, cuối năm Đệ Tứ thi Bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp. Kỳ thi này học sinh phải đậu cả phần thi viết và vấn đáp. Tuy nhiên phần thi vấn đáp được loại bỏ vào năm học 1959-1960 và kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp được bỏ hẳn 1966-1967.

Trung học Đệ Nhị Cấp gồm ba lớp Đệ Tam, Nhị và Nhất. Cuối lớp Đệ Nhị phải qua kỳ thi Tú Tài I học sinh phải đỗ Tú Tài I mới được tiếp tục lên đệ Nhất để thi Tú Tài II.

Kể từ năm 1973 trở kỳ thi Tú tài I được bãi bỏ, chỉ còn phải thi tú tài II còn gọi là Tú Tài toàn phần phổ thông bằng hình thức thi trắc nghiệm và được chấm thi bằng máy điện toán IBM.

Đại Học: Người có bằng Tú Tài II được ghi tên theo học hoặc thi tuyển vào các phân khoa thuộc Viện Đại học, các trường Cao Đẳng và Chuyên nghiệp như Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Trường Vỏ Bị Liên Quân Đà Lạt…

Một điểm đáng chú ý trong giai đoạn chuyển tiếp của chương trình giáo dục Pháp Việt trước 1954 và chương trình Giáo dục VNCH, cuối năm Tiểu học, xong lớp Nhất, học sinh không đậu thi tuyển vào ngay lớp Đệ Thất trường công Trung Học miễn phí, có thể học trường tư hoặc trải qua một lớp trung gian là lớp Tiếp liên (Cours Certifié) để năm sau thi lại có cơ hội tốt.

Năm 1958, Đại hội Giáo dục Quốc Gia được tổ chức lần thứ nhứt tại Sài Gòn, quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức dân sự, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học tới đại học, từ phổ thông tới kỹ thuật. Ba nguyên tắc: nhân bản (humanistic), dân tộc (nationalistic), và khai phóng (liberate) được chính thức hóa ở đại hội này. Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho tiết lý giáo dục của miền Nam, được ghi cụ thể trong tài liệu “Những nguyên tác căn bản” do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959, sau đó được ghi trong “Nguyên tắc căn bản của nền giáo dục Việt Nam” ở Chương trình Trung học năm 1959, do Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản.

Sau khi nền Đệ nhất Cộng hòa chấm dứt, đến năm 1964, Đại hội Giáo dục Quốc gia lần thứ hai tiếp tục tái khẳng định ba nguyên tắc định hướng căn bản, nhưng sửa lại thành: nhân bản, dân tộc, khoa học, và sau đó được ghi rõ ở Điều 11, Hiến pháp của nền Đệ nhị Cộng hòa năm 1967: “Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản.

Triết lý giáo dục được ghi trong mục Nguyên tắc căn bản của nền giáo dục Việt Nam ở đầu Chương trình tiểu học và Trung học. Theo giải thích của văn bản này, đó là:

1. Nền giáo dục Việt Nam phải là nền giáo dục nhân bản, tôn trọng giá trị thiêng liêng của con người, lấy chính con người làm cứu cành, và như vậy, nhằm mục đích phát triển toàn diện con người.

2. Nền giáo dục Việt Nam phải là một nền giáo dục dân tộc, tôn trọng giá trị truyền thống mật thiết liên quan với những cảnh huống sinh hoạt như: gia đình, nghề nghiệp, đất nước và đảm bảo hữu hiệu cho sự sinh tồn, phát triển của quốc gia dân tộc.

3. Nền giáo dục Việt Nam phải có tính cách khai phóng, tôn trọng tinh thần hoa học, phát huy tinh thần dân chủ và xã hội, thâu thái tinh hoa của nền văn hóa thế giới.

(Chi tiết hơn về triết lý giáo dục Nhân bản, dân tộc và khai phóng, xin đọc ở các phần sau của loạt bài này)

Trong bài viết phần 1, nói về Giáo dục miền nam thời kỳ 1955-1975, xin gửi đến thông tin và hình ảnh của chương trình TIỂU HỌC.

Hình 20: Học trò lớp Tư 1954 trường Chi Lăng trên đường Chi Lăng, gần trường Vẽ Gia Định
Bằng cấp Tiểu học thời Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa 1960 cấp cho học sinh tốt nghiệp trường tiểu học

Bậc Tiểu học thời kỳ này có 5 lớp, gồm: lớp 1, lớp 2, lớp 3, lớp 4 và lớp 5 (trước năm 1970 gọi là lớp Năm, lớp Tư, lớp 3, lớp Nhì và lớp Nhất). Theo quy định của Hiến Pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục cưỡng bách (bắt buộc). Từ năm 1955, đã có luật quy định trẻ em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học. Cuối mỗi năm học, học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải ở lại lớp (lúc đó gọi là “học đúp”).

Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác. Theo quy định chung trong chương trình của Bộ Quốc Gia Giáo Dục, học sinh tiểu học đi học 2 buổi/ngày, 6 ngày mỗi tuần, được nghỉ 2 buổi chiều. Tuy nhiên, đối với các trường không có điều kiện, học sinh học 01 buổi/ngày và chia theo 2 ca sáng và chiều. Vào đầu thập niên 1970, toàn miền Nam có khoảng 2,5 triệu học sinh tiểu học, chiếm hơn 80% tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi; và có 5.208 trường tiểu học.

Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp 1 để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho đến hết bậc tiểu học trong các trường công lập hay tốn học phí (tuỳ theo trường) tại các trường tiểu học tư thục. Tuy nhiên, ở các địa phương hay vùng nông thôn, học sinh bắt đầu đi học lớp 1 chậm hơn, từ 7 hoặc 8 tuổi.

Chương trình học bậc Tiểu học: Lớp 1 Tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn Quốc văn; 2 giờ môn Bổn phận Công dân và Đức dục (Công dân giáo dục). Lớp 2, Quốc văn giảm còn 8 giờ, nhưng thêm 2 giờ Sử ký và Địa lý. Lớp 3 trở lên thì ba môn Quốc văn, Công dân và Sử – Địa chiếm 12-13 giờ mỗi tuần. Một năm học kéo dài 9 tháng, nghỉ hè ba tháng (ở miền Nam nghỉ hè đúng trọn 3 tháng).

Ngày nghỉ lễ trong năm: Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ, bao gồm các ngày: Lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng, Lễ giỗ tổ Hùng Vương, ngày Quốc Tế Lao Động 1-5, ngày Tết âm lịch, ngày lịch sử địa phương,…

Học sinh học giỏi có thể học vượt lớp (gọi là học phóng), ví dụ đang học lớp 3, nhưng học giỏi và nắm được chương trình lớp 4 thì có thể vượt lớp lên học lớp 5, tuy nhiên số này rất hiếm.

Trường Tiểu Học Cộng Đồng

Quá trình hình thành và hoạt động

Giáo dục cộng đồng được áp dụng ở miền Nam chủ yếu ở bậc tiểu học. Trước năm 1961, trường tiểu học cộng đồng do Tổng nha Trung Tiểu học và Bình dân giáo dục quản lý. Có nhiều các định nghĩa về trường tiểu học cộng đồng, có thể tham khảo định nghĩa của Uỷ ban UNESCO tại Việt Nam lúc đó như sau: “Trường cộng đồng khác với trường phổ thông ở hai phương diện: hoạt động bên trong và hoạt động bên ngoài. Trường phổ thông theo đuổi một chương trình khoa cử thụ động. Còn trường tiểu học cộng đồng thực hiện một chương trình linh động có tính cách địa phương qua các chủ điểm giáo dục, vừa cá tính hoá, vừa xã hội hoá nền học cùng một lúc”.

Thời kỳ từ năm 1955 đến 1958 là thời kỳ đầu của trường tiểu học cộng đồng ở miền Nam. Một số ngôi trường được xây dựng, chủ yếu là ở nông thôn, trang bị nhiều thiết bị thực hành cần thiết như: máy khâu, máy may, máy dệt vải,.. do Quỹ Viện Trợ Hoa Kỳ đài thọ. Mục đích của các trường này là hướng nghiệp cho học sinh về các ngành trồng trọt, chăn nuôi, thủ công nghiệp (may mặc, giày dép,..)

Chương trình học chủ yếu là các môn học như chương trình Tiểu học phổ thông, nhưng thêm các bộ môn gắn liền với thực tế ở địa phương. Từ năm 1958 đến năm 1962, Bộ Quốc gia Giáo dục tiếp tục quá trình cải tiến trường tiểu học phổ thông thành trường tiểu học cộng đồng, đồng thời đào tạo giáo viên cộng đồng tại Trung tâm giáo dục Căn bản tại Long An.

Trong giai đoạn 1962 – 1965, hệ thống trường cộng đồng tiếp tục phát triển, Nha tiểu học đổi thành Nha Tiểu học và Giáo dục cộng đồng theo Nghị định số 1692 – GD/PC/NĐ ngày 6-12-1965. Theo nghị định này, đường lối giáo dục cộng đồng được triển khai rộng hơn. Đến năm 1967, Bộ Quốc Gia Giáo Dục đã cộng đồng hoá được 900 trường tiểu học và đến năm 1969, triển khai cộng đồng hoá các trường tiểu học trên toàn miền Nam bằng Nghị định số 2463-GD/PC/NĐ ngày 25 – 11 – 1969.

Đội ngũ giáo chức do ngành sư phạm đào tạo, đến năm 1970 đã có 14.000/39.192 giáo viên tiểu học được huấn luyện về giáo dục cộng đồng. Đến năm học 1968 – 1969, trên toàn miền Nam đã có 1.336 trường Tiểu học cộng đồng, với 17.604 lớp, 954.407 học sinh và 17.272 giáo chức.

Mục tiêu giáo dục

Giáo dục cộng đồng gồm 2 mục tiêu chính và cụ thể như sau:

– Giáo dục trẻ em: Dạy cho trẻ hiểu biết chữ nghĩa, mở rộng kiến thức, đào tạo những trẻ em chậm tiến trở thành người nhanh nhẹn, vững vàng và tự tin trong học tập.

– Giáo dục dân chúng: Giúp dân chúng hiểu biết những khái niệm về y tế, kinh tế, văn hoá,… để họ có những tiến bộ trong cuộc sống của bản thân và gia đình, thoát khỏi tình trạng thiếu hiểu biết, nguyên nhân làm cho xã hội nông thôn bị lạc hậu, trì trệ.

Nguyên tắc giáo dục

Có 4 nguyên tắc căn bản trong giáo dục cộng đồng:

– Hoạt động sát với hoàn cảnh của địa phương;
– Hoạt động sát với nhu cầu địa phương;
– Vừa giáo dục trẻ con vừa giáo dục quần chúng
– Chủ trương gắn liền học với hành

Phương pháp giáo dục

Mục đích của giáo dục cộng đồng là cải thiện đời sống trẻ em trong các gia đình và đời sống của cộng đồng. Dựa vào 4 nguyên tắc trên, trường cộng đồng áp dụng một đường lối giáo dục mới mẻ, thực tế, phù hợp với nông thôn Việt Nam.

Có 4 phương pháp chủ yếu là:

– Phương pháp nghiên cứu địa phương có nghĩa là nghiên cứu điều kiện kinh tế, văn hoá, địa lý, tập tục,… của địa phương đó để đề ra chương trình giáo dục thích hợp.

– Phương pháp chủ điểm là tập trung vào vấn đề quan trọng nhất của địa phương để có kế hoạch giáo dục phù hợp.

– Phương pháp nghiên cứu riêng từng vấn đề, mỗi vấn đề được nghiên cứu cẩn thận, nhưng vừa sức với học sinh.

– Phương pháp giáo dục quần chúng nghĩa là để học sinh hoạt động cùng nhân dân, giúp đỡ và học hỏi nhân dân.

Giáo dục cộng đồng là đường lối giáo dục mang giá trị thực tiễn rất cao, giúp cho xã hội nhanh chóng thoát khỏi tình trạng trì trệ, tạo nền tảng để phát triển theo kịp các nước tiên tiến. Điều đáng tiếc là chương trình giáo dục cộng đồng tuy mang nhiều cao vọng, nhưng trên thực tế thực hiện lại còn nhiều lúng túng và thiếu sót, không đạt được đầy đủ mục tiêu như kế hoạch lý tưởng đã đề ra. Những điều kiện cơ sở vật chất như trường lớp thiếu, thiết bị thiếu, trong lúc trường tiểu học phổ thông cũng như tiểu học cộng đồng yêu cầu học 2 buổi/ ngày. Giáo viên không đủ, mục tiêu giáo dục khó trở thành hiện thực.

Đặc điểm của giáo dục Tiểu học miền Nam giai đoạn 1955-1975

Căn cứ vào 3 nguyên tắc căn bản của nền giáo dục là nhân bản, dân tộc và khai phóng, giáo dục Tiểu học đã xác định những đặc điểm sau đây:

(1) Tôn trọng nhân cách trẻ em

Tôn trọng nhân cách trẻ em có nghĩa là:

– Giúp trẻ phát triển điều hoà và trọn vẹn tuỳ theo bản chất và căn cứ trên định luật nảy nở tự nhiên về thể xác cũng như về tâm lý;

– Tôn trọng cá tính và khả năng, sở thích đặc biệt của trẻ;

– Triệt để áp dụng kỷ luật tự giác;

– Tránh mọi hình phạt phạm đến nhân cách, nhân phẩm của trẻ;

(2) Phát triển tinh thần quốc gia dân tộc

Để phát triển tinh thần quốc gia dân tộc cần:

– Lấy đời sống nhân dân và thực trạng xã hội Việt Nam làm đối tượng;

– Lấy Quốc sử để rèn luyện tinh thần ái quốc, nêu cao ý chí tranh đấu của dân tộc, gây tình thân ái và đoàn kết;

– Dùng Quốc văn là lợi khí sắc bén để trau dồi tư tưởng quốc gia;

– Nêu cao vẻ đẹp của non sông Việt Nam, những tài nguyên phong phú của đất nước, những đức tính cố hữu của dân tộc;

– Duy trì đạo lý cổ truyền và những thuần phong mỹ tục của dân tộc;

– Gây đức tính tự tín, tự lập, tự cường.

(3) Rèn luyện tinh thần dân chủ và khoa học

Để rèn luyện tinh thần dân chủ và khoa học cần:

– Triệt để áp dụng “hàng đội tự trị”, tức là quản lý theo tổ đội, phát triển tinh thần tập thể (chơi tập thể, làm việc tập thể) và gây ý thức cộng đồng;

– Rèn luyện óc phê phán, tinh thần trách nhiệm, tinh thần kỷ luật;

– Kích thích tính hiếu kỳ của trẻ, phát triển tinh thần khoa học;

– Bài trự dị đoan, mê tín;

– Tiếp thu tinh hoa văn hoá nước ngoài song song với việc phát huy tinh thần dân tộc.

Có thể thấy, chương trình giáo dục bậc tiểu học giai đoạn này được xây dựng trên tinh thần chú trọng phát triển nhân cách, năng khiếu, gắn liền với đời sống, các giá trị nhân văn, dân tộc và quan trọng là rèn cho học sinh thần phê phán, khoa học. Điều đó chứng tỏ rằng, giáo dục cho trẻ ngay từ giai đoạn chập chững trên ghế nhà trường là bước giáo dục quan trọng để hình thành nhân cách, phát triển tài năng và giúp trẻ tự lập trong tương lai.

Kết cấu chương trình và thời khoá biểu bậc Tiểu Học

Kết cấu chương trình

Chương trình Tiểu học gồm các môn học: Việt ngữ (Ngữ vựng, Tập đọc, Học thuộc lòng, Chính tả, Văn phạm, Tập viết, Tập làm văn), Đức dục, Công dân Giáo dục, Quốc sử, Địa lý, Khoa học thường thức (Khoa học thường thức và Quan sát vệ sinh), Toán, Vẽ, Thủ công, Hoạt động Thanh niên (đi chơi, đi cắm trại), Thể dục, Nữ công gia chánh. Tuỳ vào yêu cầu từng lớp học mà chương trình có những bài học phù hợp. Lớp Nhì và Lớp Nhất được phân chia nam, nữ sinh học riêng. Nữ sinh có thêm môn học Nữ công gia chánh.

Điểm nổi bật của chương trình Tiểu học giai đoạn này là được biên soạn theo hướng tích hợp, liên môn. Trong phương pháp dạy học yêu cầu giáo viên phải biết liên hệ giữa các môn học và liên hệ thực tế để học sinh hiểu được vấn đề. Ví dụ như trong chương trình Việt ngữ đã có lưu ý: “Trong lúc dạy Việt ngữ, giáo chức nên nhớ rằng chương trình ấy không phải đứng tách hẳn chương trình của các môn học khác như Đức dục, Công dân giáo dục, Quốc sử, Địa lý,… mà phải cố tìm cách cho chương trình các môn học ấy và khoa Việt ngữ có liên lạc với nhau” (Chương trình Tiểu học, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, 1960). Như vậy, ngay từ những năm 1960, chương trình Tiểu học đã được biên soạn theo hướng tích hợp và yêu cầu phương pháp dạy học cũng phải tích hợp, liên môn và khoa học.

Thời khoá biểu

Trước năm 1959, thời lượng chương trình Tiểu học là 27 giờ 30 phút/ tuần. Từ niên khoá 1959-1960 và chương trình sửa đổi áp dụng từ 1967-1968, chương trình Tiểu học quy định tất cả học sinh học 6 ngày/ tuần, mỗi ngày học 2 buổi và được nghỉ chiều thứ 4, chiều thứ 7.

Chương trình Tiểu học in thời khoá biểu do Bộ quy định và tất cả các trường trong toàn miền Nam được dạy theo thời khoá biểu chung này. Trong trường hợp đặc biệt, có thể áp dụng thời khoá biểu của Nha học chính và Phần bắt buộc phải có sự chuẩn y của Bộ. Dưới đây là một số thời khoá biểu của các lớp bậc tiểu học được trích trong Chương trình Tiểu học của Bộ giáo dục, Thanh niên áp dụng từ niên khoá 1967-1968:

Qua thời khoá biểu cho thấy giai đoạn 1954 – 1975 mô hình dạy học 2 buổi/ ngày đã được áp dụng tại miền Nam Việt Nam. Thời khoá biểu trên được áp dụng cho các trường công lập, các trường tư thục có thể phân chia thời khoá biểu linh hoạt hơn. Một số người dạy học giai đoạn này cho rằng các trường công lập cũng tuỳ vào điều kiện cơ sở vật chất, giáo viên có thể không áp dụng triệt để thời khoá biểu 2 buổi/ ngày mà chia theo 2 ca sáng – chiều và học sinh chỉ học một buổi.

Phương pháp dạy học

Đối với bậc tiểu học, Chương trình tiểu học cũng quy định rõ “phương pháp dạy học cần phải tuân thủ: học đi học lại kỹ lưỡng theo phương pháp tiệm tiến, đi từ chỗ biết đến chỗ chưa biết, từ chỗ gần đến chỗ xa, đi từ chỗ dễ đến chỗ khó, từ chỗ cụ thể đến chỗ trừu tượng”. Giáo viên phải dùng vật liệu, tranh ảnh hoặc ví dụ thiết thực để cụ thể hoá tất cả các vấn đề đem dạy cho học sinh.

Mỗi một môn học, yêu cầu phương pháp dạy học cụ thể hơn. Ví dụ, với môn Việt ngữ yêu cầu nên nhẹ phần tầm chương trình cú mà chú ý giáo dục những vấn đề về đạo đức con người, hạnh phúc gia đình, an ninh xã hội,… hoặc môn Đức dục yêu cầu nên sơ lược về lý thuyết và cụ thể hoá bài học, những ví dụ rút từ đời sống, những câu chuyện vặt kể hằng ngày,… đó là phương pháp làm cho học trò nhận thấy chân lý một cách rõ ràng và có công dụng là kích thích bản năng đạo lý của học sinh… Chương trình Giáo dục công dân là những điều mà mỗi công dân cần biết, những huấn lệnh thiết thực phải thi hành để sống hạnh phúc trong kỷ luật và trật tự, vì thế phương pháp dạy học yêu cầu giáo viên phải chú trọng thực hành và kiểm soát nội dung cẩn thận. Phương pháp dạy toán lại yêu cầu “dạy ít tập nhiều”, ở tất cả các lớp cần phải chú trọng về tính miệng, tập sao cho trò làm thật nhanh, thật đúng thì khi ra đời mới có ích.

Như vậy, phương pháp dạy học Tiểu học đã chú trọng đến thực hành, chú trọng việc dạy trẻ từ dễ đến khó, đơn giản đến phức tạp, rèn luyện thường xuyên, liên tục những kiến thức từ thực tế để các em được trang bị những kiến thức có ích và có thể hoà nhập với đời sống cộng đồng.

Sách giáo khoa Tiểu học và tài liệu tham khảo

Sách giáo khoa

Đối với giáo dục tiểu học, chương trình giáo dục là thống nhất, nhưng có nhiều bộ sách giáo khoa khác nhau, do Bộ Quốc gia Giáo dục hoặc do các nhà xuất bản tư nhân ấn hành. Tất cả các nhà soạn sách đều phải tuân theo các nguyên tắc căn bản của nền giáo dục là nhân bản, dân tộc, khai phóng và tuân theo các đặc tính cơ bản của giáo dục tiểu học, được in ở đầu chương trình.

Sách giáo khoa được biên soạn theo chủ đề, mỗi chủ đề có những nội dung bài học cụ thể và qua mỗi bài học giáo viên cần rèn luyện để học sinh tiếp xúc với kiến thức thực tế nhiều hơn là những câu chữ từ chương trong sách.

Sách giáo khoa được xem là bộ học liệu để giáo viên phát triển bài dạy theo hướng mở rộng liên hệ các bài học thực tế, từ đó giúp học sinh hiểu bài sâu và vận dụng linh hoạt trong cuộc sống hằng ngày.

Nội dung của các bài học cho mỗi chủ điểm đều hướng tới sự thể hiện 3 nguyên tắc căn bản của nền giáo dục. Không chỉ ở các bài học của môn Đạo đức, Giáo dục công dân, Quốc sử,.. mà các bài học của môn Việt ngữ từ nội dung bài học đến hệ thống từ ngữ, câu hỏi, bài tập đều hướng tới nguyên tắc mà chương trình đã nêu. Không ít bài trực tiếp giáo dục niềm tự hào dân tộc, về tình yêu quê hương, khơi nguồn khát vọng vươn tới ngày mai tươi sáng, khơi gợi tình yêu thương chia sẻ.

Đánh giá, nhận xét về chương trình Tiểu học

Chương trình Tiểu học của giáo dục phổ thông miền Nam được kế thừa chương trình Tiểu học năm 1949 của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam (chính phủ thân Pháp), sau đó, được sửa đổi nhiều lần. Đặc biệt là chương trình Tiểu học sửa đổi theo Nghị định số 1005 – GD/NĐ ngày 16-7-1959 đã chính thức đưa các nguyên tắc căn bản của nền giáo dục (nhân bản, dân tộc, khai phóng) vào chương trình, từ đó xác định mục tiêu, nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy và kiểm tra, đánh giá học sinh.

Chương trình môn học được biên soạn chi tiết, cụ thể từng tiết học theo từng chủ đề, có yêu cầu về nội dung giảng dạy, phương pháp phải sử dụng đối với mỗi môn học và nhất là mục tiêu cần đạt của mỗi môn học phải đáp ứng mục tiêu chung của giáo dục Tiểu học. Tuỳ theo mỗi chủ đề trong sách giáo khoa của từng môn học mà giáo viên lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp để học sinh tiếp thu một cách tốt nhất, đảm bảo tôn trọng nhân cách trẻ, phát triển tinh thần quốc gia dân tộc và nhất là rèn luyện tinh thần dân chủ và khoa học. Các chủ điểm trong chương trình được biên soạn theo hướng tích hợp đa môn, chẳng hạn, trong môn Việt ngữ học về chủ điểm gia đình thì ở môn Học thuộc lòng, yêu cầu học sinh học một bài thơ về gia đình, môn Đạo đức dạy về tình cảm với ông bà, cha mẹ,..

Mặc dù còn có những hạn chế, nhưng sách giáo khoa Tiểu học ở miền Nam trước năm 1975 cũng có những điểm mạnh đáng ghi nhận về tính tích hợp; về việc hướng tới triết lý nhân bản, dân tộc, khai phóng, không chỉ ở môn xã hội mà cả những môn Khoa học thường thức, Vệ sinh, Thủ công,… Về con đường hình thành các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt và các kỹ năng sống phù hợp với lứa tuổi học sinh Tiểu học như: trật tự ngăn nắp, công việc gia đình, việc học tập, sinh hoạt ở nhà trường,…

Tuy nhiên, theo nhiều nhà giáo dục đương thời thì nội dung Chương trình Tiểu học còn nặng nề về lý thuyết, thiếu thực tế, chưa sát với hoàn cảnh và nhu cầu địa phương, nhất là đối với các vùng dân tộc thiểu số, không thiết thực với hiện trạng nước nàh. Nội dung chương trình khá nặng nề, còn rườm rà phức tạp, vượt quá trình độ về trí năng và tâm lý trẻ, như dạy địa lý cho một em học sinh lớp 5 mà muốn các em phải “hiểu biết những khả năng mới về kinh tế, chính trị và văn hoá của nước nhà, của các nước lân cận và của các nước cường quốc năm châu; để rồi so sánh, suy nghĩ đặng tìm cách theo kịp người hoặc vượt hơn người.

Hết phần 1 nói về bậc Tiểu học, mới các bạn đón xem các phần tiếp theo, nói về tổng quan các chương trình Trung học và Đại học ở miền Nam thời kỳ 1955-1975.

chuyenxua.net biên soạn
Nguồn tư liệu: Sách “Giáo dục phổ thông Miền Nam” của Ngô Minh Oanh chủ biên – NXB Tổng Hợp TPHCM

Viết một bình luận