Bàn về việc đốt vàng mã trong lễ Tết và kỵ nhật của người Việt (bài báo năm 1942)

Tiền âm phủ (còn gọi là tiền địa phủ, tiền vàng bạc, tiền vàng mã) gọi tắt là vàng mã là một loại giấy kích thước và trang trí giống (hoặc gần giống) như giấy bạc thật, được dùng để cúng bái trong các dịp ma chay, đám giỗ, cúng tế, làm lễ tại các đền, chùa.

Trong quá khứ, có rất nhiều đợt phản đối tập tục này ở Việt Nam, đặc biệt là từ 50-100 năm trước, các cao tăng của giáo hội Phật giáo đã nhiều lần lên tiếng khẳng định tục đốt vàng mã không có trong Phật giáo Việt Nam, đồng thời nhắc nhở trụ trì các chùa phổ biến cho người dân hiểu rõ hơn, tường tận hơn để hạn chế và dần dần đi đến từ bỏ tục đốt vàng mã.

Nguồn gốc và ý nghĩa tinh thần của tập tục đốt vàng mã được ký giả Nhật Nham nêu chi tiết cụ thể trong bài báo Xuân Nhâm Ngọ (1942) của Tri Tân tạp chí sau đây.

Việc sinh tử vô thường; sự cát hung, họa phúc khó lượng. Lúc ốm đau, khi lo sợ, cuộc nhân sinh nhiều nỗi éo le… Rủi rủi, may may, bày bày, xóa xóa… Người ta tin tưởng rằng trong chỗ vô hình, chắc có do một sức mạnh ngấm ngầm chủ trương. Bởi thế mới phát sinh ra cái quan niệm về quỷ, thần, mới có sự cúng tế để cầu phúc, tránh họa.

Tại Trung Hoa, về đời thượng cổ, một bọn đồng cốt đã lợi dụng lòng tin tưởng của quần chúng, đem những điều cát hung họa phúc, dùng những phương thuật huyền hoặc đánh lừa quốc dân, để làm kế sinh nhai. Thậm chí nhà nào cũng thờ quỷ thần!

Dân chúng bị mê hoặc, không hiểu rõ chính lý của trời đất, không phân biệt thiện, ác, chỉ tìm mối họa phúc ở chỗ mơ màng mù mịt, nên đế vương đời trước mới định rõ điển lễ, để phân biệt người với thần, để chỉnh lòng người.

Đạo thánh hiền tuy công chính, nhưng chỉ cảm hóa được thiểu số có học thức, còn ngoài ra lòng người vẫn bị vật dục làm mờ tối, nên cái thuật của bọn vu nghiễn (thày pháp) vẫn được công hành. Về sau, các vương giả phải đặt quan Tư vu để cai quản vu nhân.

Việc cúng bái theo sự mê tín của quần chúng mỗi ngày một phức tạp mà do có nhiều tập quán không sao bỏ được.

Tục đốt vàng mã có nhẽ cùng tự nguyên nhân ấy phát sinh ra từ mấy nghìn năm nay.

Nay thử lược khảo về sự tích vàng mã trong lịch đại Trung Hoa và xét xem tục đốt vàng mã trong thâu nhập vào nước ta từ thời đại nào.

Nguyên nước Trung Hoa, về đời thượng cổ, người chết không phong phần, không cây làm ghi, chỉ bó bằng củi, đem táng giữa nơi hoang vu, không người qua lại thăm viếng.

Đến năm 2679 trước Tây lịch, vua Hoàng đế truyền ông Xích Tương chế ra quan quách.

Từ năm 2205 trước Tây lịch nhà Hạ nặn đất ngói làm cỗ bàn, lấy tre và gỗ làm các khí cụ như đàn, sáo, chuông, khánh, v.v., gọi là minh khí để chôn theo với người chết.

Minh khí là đồ dùng của thần minh vua quỷ, nên cũng thường gọi là quỷ khí rồi do đó, nẩy ra cái mầm dùng đồ mã.

Sau, nhà Ân lên thay nhà Hạ vào năm 1765 trước Tây lịch. Trái với đời trước chôn minh khí, đời này chôn tế khí, là đồ thực cả.

Nhà Châu (1122 trước Tây lịch) chia người chết làm hai hạng; quý và tiện. Quý, gồm từ thiên tử xuống đến đại phu, được kiếm dùng cả quý khí và tế khí. Tiện, từ sĩ phu xuống đến thứ dân, chỉ được dùng quỷ khí mà thôi.

Lúc sinh thời, vua yêu vợ nào, quý con nào, mến kẻ thị dụng nào, đến khi vua băng, những người ấy đều bị chôn sống theo vua, gọi là tuẫn táng. Tục này không những dùng cho một thiên tử, mà các vua chư hầu cũng đều theo cả.

Sau khi Tần Mục công mất, ba anh em họ Tử xa và Yêm Tức, Trọng Hành và Châm Hổ có tài đức hơn người, đều phải tuẫn táng! Người trong nước tỏ nỗi xót thương, có làm thơ phản đối tục chôn sống người vô nhân đạo ấy. Triều đinh mới tìm vật khác thay cho người, nhân thế mà chế ra người bằng cỏ.

Người bằng cỏ trông không được mỹ quan, nên lại làm người bằng gỗ tức là mộc ngẫu hay dũng, do Yểu tư chế ra từ năm 1001 trước Tây lịch đời Châu Mục Vương.

Từ đời Hán về sau, nho giáo thịnh hành, việc dùng mộc ngẫu đều bị coi khinh, dân gian lại trở lại dùng đồ thực. Bao nhiêu đồ nhật dụng, bao nhiêu vàng, ngọc, châu, báu, lúc chết đều đưa ra mộ. Vì tục tuẫn táng đã coi là vô nhân đạo, nên người không phải chôn sống nữa, chỉ phải lưu cư nơi mộ địa. Có khi, trên mộ lại đặt ngựa đá, voi đá, phỗng đá, cho thêm nghị vệ.

Đến năm đầu, niên hiệu Nguyên Hưng (105) đời Hán Hòa Đế, ông Thái Luân lấy vỏ cây dó và giẻ rách chế ra giấy.

Về sau quan Chưởng Sử nhà Đường là Vương Dư mới nghĩ cách thay vàng bạc thực bằng tiền giấy để dùng vào việc tang ma, tế tự. Tiền giấy xuất hiện tự đời Huyền Tôn nhà Đường năm Khai nguyên 26 (738). Vương Dư được cử làm Thái thường bác sĩ coi việc thiêu đốt tiền giấy trong khi cúng tế.

Tiền giấy một khi đã được công hành, người ta lại nghĩ đến việc thay người cỏ, người gỗ hay người sống bằng giấy gọi là hình nhân để thế mạng. Rồi những đồ cúng cũng đều làm bằng giấy để dùng cho vong giả.

Tục dùng đồ mã từ đó được ưa chuộng, lại gặp hồi Phật giáo thịnh hành, nên được phổ cập trong nước Trung Hoa.

Nhân ngày 15 tháng 7 là tiết trung nguyên, vua Đường Đại Tôn (763-779), theo lời tâu của sư Đạo Tạng, thông sức cho dân gian mua minh cụ bằng đồ mã, khấn, rồi đốt để các vong nhân có thứ dùng trong âm giới.

Thế là đồ mã được lưu hành trong nước Tàu một cách rất mau chóng.

Nước ta, trong hồi nội thuộc Tàu, từ văn chương, đến phong tục, dù hay, dù dở cũng đều hòa theo người Trung Quốc. Tục đốt mã cũng vì thế mà thâu nhập trong xã hội Việt Nam.

Quốc dân ta bao năm đã từng thực hành tập tục ấy đối với người đã khuất. Song tiếc rằng người mình quá ư xa xỉ, thường thường chỉ làm theo cái nghi thức trong sự thờ tự mà quên mất cái tinh thần về việc kỷ niệm thần minh hay tổ tiên.

Ít lâu nay, muốn cho đồng bào tiết kiệm một số tiền xa phí vô ích để mua lấy một đống tro tàn, nên trong xã hội ta đã từng nổi lên phong trào bài trừ việc dùng đồ mã. Song xem ra cũng không có kết quả là bao!

Tục đốt mã vẫn thịnh hành, quốc dân phần đông tuy đối với mọi sự chi phí ăn tiêu vẫn dè dặt, mà đối với việc đốt mã vẫn không chịu ngừng tay! Nhờ thế mà nuôi sống một nghề đã có từ nghìn xưa, do đó một hạng người không đến nỗi thất nghiệp! Hiện nay, nghề làm đồ mã vẫn phát đạt như thường!

Việc đời không cái gì là toàn lợi, mà không cái gì toàn hại cả; cốt sao dung hòa, tiết chế cho có điều độ thì hơn.

Theo nho giáo nói, thì người ta sinh ra đời, có khí, có hồn, có phách.

Một khí thở hơi cuối cùng, hồn phách sẽ rời xác thể mà bay đi. Cái khí tinh anh lên khoảng không gian sáng sủa rực rỡ, còn hài cốt dần dần tiêu tán.

Vậy thì chết đi không phải là hết cả, chỉ hết cái hình hài mà thôi; còn cái khí tinh anh tức là tinh thần vẫn ở trong vũ trụ. Do cái lý tưởng ấy, nên có câu: “Sinh ký giã, tử quy giã” (sống là gửi vậy, thác là về vậy).

Dù tinh thần biết hay không biết, song đối với người chết, bao giờ ta cũng có tình cảm, không thể cho là người chết không biết gì nữa hay vẫn còn biết như lúc ở trên trần.

Theo Lễ ký, thì “nói người chết là mất hẳn, không biết gì nữa, đó là bất nhân; không nên theo. Nói người chết là còn biết như lúc hãy còn sống, đó là bất trí; cũng không nên theo”.

Vậy sự thờ cúng người chết, tế tự tổ tiên là một việc cần nên có để tỏ lòng thành kính, biết ơn, khiến con cháu lúc nào cũng ngưỡng vọng đến tiền nhân, tưởng tượng như tiên tổ vẫn còn tại thế để chứng kiến lòng tôn kính của con cháu, để che chở, dìu dắt con cháu qua nhiều bước khó khăn trên đường đời…

Vì sùng bái, kỷ niệm tiên tổ, nên con cháu muốn tỏ lòng “sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn”.

Người con cháu có lòng hiếu kính sắm đủ các đồ nhật dụng, các thứ kim ngân châu báu, dâng cúng tổ tiên, đốt ra tro để làm khói bay theo linh hồn người khuất! Rồi trông theo làn khói, con cháu có thể tự an ủi là một khí tiền nhân đã nhận đủ các đồ minh khí, nghĩa vụ người sau đã trọn vẹn để yên lòng người theo đuổi cuộc đời.

Vậy thì đốt vàng mã trong mấy ngày tết, trong các kỵ nhật tuy cũng là một phí khoản, song cũng không đến nỗi xa phí vô ích như những món tiền hi sinh trong chốn yên hoa, trong bàn đèn đỏ, mà lại còn có công dụng nhắc kẻ làm con cháu phải đủ bổn phận đối với tiền nhân, nghĩ đến công đức người trước, noi gương sáng, làm cho thơm danh tiên tổ, quang rạng nghiệp nhà…

Điều cốt yếu là theo cuộc biến thiên của thời thế, ta nên xa giấc mộng mơ màng mê muội nghìn xưa, tinh giảm sự xa phí về việc đốt vàng mã, thâu thái lấy cái tinh hoa của cổ tục, ấy là đã tiến một bước dài trên đường giác ngộ vật.

Tác giả: Nhật Nham – 1942

 

Viết một bình luận