Bài báo năm 1944: Tục đa thê của người Việt thời xưa

Mãi cho tới những năm đầu thế kỷ 20, xã hội Việt Nam vẫn còn chấp nhận chế độ đa thê. Đây là một điều cấm kỵ ở phương Tây vào lúc đó, và tuần báo tiếng Pháp Indochine năm 1944 đã có 1 bài viết về vấn đề này, tác giả là một người Việt tên La Giang:

Chúng ta đều biết rằng người An Nam có bổn phận thiêng liêng là thờ cúng tổ tiên. Nhiệm vụ này được giao cho nam giới, cho nên tập quán và pháp luật đều cho phép người chồng được cưới vợ hai, vợ ba, vợ thứ n… cho tới khi nào người đàn ông có được đứa con trai để kế tục thờ cúng tổ tiên.

Có thể thấy, dù chế độ đa thê bắt nguồn từ vấn đề tôn giáo, thờ cúng tổ tiên, nhưng vì tính tham lam ích kỷ nên ông nào cũng muốn lạm dụng việc này để nạp thật nhiều thê thiếp, vì vậy nên người đời mới có câu:

Sông bao nhiêu nước cũng vừa,
Trai bao nhiêu vợ cũng chưa bằng lòng.

Dù gì đi nữa, chế độ đa thê cũng không dễ dàng được nữ giới tiếp nhận, thế nên còn có một câu ca khác:

Chết trẻ còn hơn lấy lẽ.

Thực tế, thân phận của người phụ nữ làm kiếp vợ lẽ thường rất bi thảm, điều này thể hiện qua câu:

Ăn cơm nguội, nằm nhà ngoài.

Là bởi vì ăn cơm nóng, nằm cùng giường với chồng là đặc quyền dành riêng cho người vợ chính thất.

Thân phận của người vợ lẽ còn được ví với thân phận của con hầu, lại là con hầu mà dân gian có câu là “đi ở không công”. So sánh như vậy cũng không quá, bởi người vợ lẽ còn bị gọi là nàng hầu, cô hầu.

Thân phận tủi nhục đó càng thêm bi đát vì tính ghen tuông của người vợ chính thất, người đã chèn ép người vợ lẽ bằng cả ngàn nỗi thống khổ. Thân phận vợ lẽ không phải là điều mà các chị, em mong ước, vì vậy mà các cô gái trẻ thường tỏ ra khinh bỉ và từ chối thẳng thừng lời cầu hôn từ một người đàn ông đã có vợ:

Đã thành gia thất thì thôi,
Đèo bòng chi nữa, tội giời ai mang?

Tuy nhiên, cũng có những người vợ lẽ may mắn được hưởng cuộc sống bình yên nhờ sự rộng lượng và biết điều của vợ cả, nhưng điều này thường hiếm.

“Nội tướng” (tên gọi khác của vợ chính thất) không phải lúc nào cũng dữ dằn. Thi thoảng người ta vẫn nghe thấy câu thể hiện sự bao dung như:

Cả sông đông chợ,
Lắm vợ nhiều con.

Thực vậy, theo quan niệm cũ, đa đinh (có nhiều con trai) là điều phúc cho gia tộc, và người vợ chính thất được coi là mẹ của tất cả những đứa trẻ do vợ lẽ sinh ra.

Dù chàng năm thiếp bảy thê,
Thì chàng cũng chẳng bỏ gái sề này đâu
Năm con năm dấu,
Mười vợ mười thương.

Thế nên nếu là người biết điều, người vợ cả sẽ tỏ ra thân thiện với tất cả những người “xấu số” bị rơi vào vị trí thấp kém, và với những người ngay ở độ xuân thì đã “thua chị kém em”. Người vợ cả sẽ có cách cư xử cao thượng với người ở vị trí thấp kém hơn mình để chứng tỏ mình xứng đáng ở hàng trên:

Có thương kẻ dưới mới là lượng trên.

Vì lẽ đó, trong những ngôi nhà có “nhiều phòng” này, đôi khi người ta phải kìm nén sự ghen tuông và những người vợ dù ở vị trí cao hay thấp phải “yêu nhau như chị em”, tuyệt đối tránh cảnh nắm tóc hay xé yếm nhau vì “xấu chàng hổ ai”.

Hình minh họa trên báo xưa: Ưu nhược điểm của chế độ đa thê

Sự hòa thuận của những nhà có “nhiều phòng” như thế trước hết phụ thuộc vào cách cư xử của người chồng. Họ cần phải khôn khéo để dàn xếp tính tự ái của các bà vợ, biến sự ganh ghét, đố kị của họ thành sự cảm thông, chia sẻ lẫn nhau. Chỉ cần riêng tư một chút là có chuyện, bởi vì:

Thế tình chuộng lạ thơm thanh,
Bên khinh bên trọng ra tình xấu chơi!

Thường là người vợ lẽ bao giờ cũng trẻ hơn, đẹp hơn người vợ cả, nên được chồng cưng chiều hơn, giống như câu:

Có mới thì nới cũ ra,
Mới để trong nhà cũ để ngoài sân
Có vả thì phụ lòng sung
Có chùa bên bắc bỏ miếu bên đông tồi tàn.

Nhiều ông chồng thiếu tinh tế thích đưa người vợ lẽ trẻ đẹp đi đây đi đó, kết cục là vợ chính thất cảm thấy uất ức, nuôi chí báo thù.

Bà vợ cả nào mà có tính cách hung hãn thì thường nổi cơn tam bành với chồng, hành hạ vợ lẽ. Những người vợ lẽ bị rơi vào trường hợp đó thường phải cam chịu sự đối xử hà khắc, tình cảnh đó thật đáng thương. Bên cạnh đó, cũng có những người vợ lẽ ương ngạnh không dễ bị người khác bắt nạt, họ tìm mọi cách để chống trả, thậm chí lao vào tấn công. Không những vậy, họ còn trút giận lên cả ông chồng quá nhu nhược nhằm trấn áp hành vi độc ác của vợ cả. Hệ quả là người chồng tội nghiệp này bị tra tấn bởi những nỗi dằn vặt không tên và có một câu ngạn ngữ dân gian ví người chồng khi đó giống như “trạch bỏ rọ cua”.

Những cảnh nhà đó không chỉ làm hàng xóm điếc tai và biến các gia đình trở thành địa ngục, mà đôi khi còn dẫn đến án mạng ngay tại chốn khuê phòng.

Một số “chính thất” tinh quái, che giấu sự phẫn uất của mình một cách khéo léo rồi âm thầm tìm cách hãm hại người vợ lẽ, hoặc làm cho họ không chịu nổi cuộc sống vợ chồng, đúng như câu trong Truyện Kiều:

Miệng ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không dao.

Để tránh bị tai tiếng, những người giàu có nhiều vợ sẽ cho mỗi bà vợ một căn nhà riêng. Sống xa nhau như vậy, các bà vợ ít có cơ hội cãi cọ nhau và cuộc sống chung của họ không mấy bị ảnh hưởng.

Những ông chủ có nhiều ruộng đất, doanh nhân giàu có nhiều công ty, họ lấy nhiều vợ để giao cho mỗi người quản lý một phần tài sản hoặc một cơ sở. Những người như vậy thường đưa đầu óc kinh doanh của mình vào cuộc sống hôn nhân như câu tục ngữ: “nhất cử lưỡng tiện”.

Bi kịch trong những ngôi nhà “nhiều phòng”, ý thức về phẩm giá mà các thiếu nữ thời nay được thụ hưởng từ nền giáo dục tân thời, và việc cải thiện vị thế của người phụ nữ trong các gia đình An Nam, là những nhân tố chính giúp loại bỏ chế độ đa thê.

Hiện nay [năm 1944], chỉ có những người phụ nữ luống tuổi, các ả đào hay gái nhảy, những người hiếm có cơ hội làm vợ cả, hoặc những cô gái trẻ mà “sự trong trắng đã bị hoen ố” mới chấp nhận thân phận khốn khổ của người vợ lẽ.

Viết một bình luận