Thi sĩ Cung Trầm Tưởng và hoàn cảnh sáng tác những bài thơ được phổ thành ca khúc nổi tiếng: Tiễn Em, Kiếp Sau, Mùa Thu Paris…

Cung Trầm Tưởng là một nhà thơ rất quen thuộc từ đầu thập niên 1960 ở Sài Gòn với thể loại thơ lãng mạn, tên tuổi ông nhanh chóng được giới thanh niên trí thức thời bấy giờ biết đến kể khi ông trở lại Sài Gòn sau khi đi du học ở Pháp. Nhắc đến Cung Trầm Tưởng thời đó, mọi người đều biết đến những bài thơ được Phạm Duy phổ nhạc là Mùa Thu Paris, Kiếp Sau, hoặc bài thơ Chưa Bao Giờ Buồn Thế được phổ thành bài hát mang tên Tiễn Em với các hình ảnh đậm chất thơ: “Ga Lyon đèn vàng” và “Lên xe tiễn em đi chưa bao giờ buồn thế…”

Ngay cái tên của nhà thơ cũng đã ấn tượng đối với nhiều người vì chất văn học rất đậm trong mỗi chữ: Cung Trầm Tưởng.

Nhà thơ Cung Trầm Tưởng

Nhà thơ Cung Trầm Tưởng tên thật là Cung Thức Cần, sinh ngày 28 tháng 2 năm 1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi (1947), ông bắt đầu làm thơ, và có tập thơ đầu tay tên là “Sóng Đầu Dòng”. Năm 1949, ông rời Hà Nội vào Sài Gòn, học tiếp trung học tại trường Chasseloup Laubat (nay là trường Lê Quý Đôn).

Năm 1952, sau một năm học đại học, ông sang Pháp du học, tốt nghiệp Kỹ Sư tại Trường Võ Bị Không Quân ở Salon-de-Provence. Đến năm 1957 thì trở lại Sài Gòn và phục vụ trong binh chủng không quân trong được 23 năm.

Tại Sài Gòn, Cung Trầm Tưởng gặp nhạc sĩ Phạm Duy, rồi họ trở thành những người bạn thân thiết. Phạm Duy từng chia sẻ như sau:

“Cung Trầm Tưởng, một thi sĩ trẻ vừa ở Paris về, đưa cho tôi mấy bài thơ để phổ nhạc trong đó có hai bài nói về mùa Thu và mùa Ðông Paris. So với nhạc tình thời đó, hai bài này rất mới lạ cho nên được các nữ ca sĩ trẻ đẹp như Thanh Thúy, Thu Hương, Lệ Thanh trình bày hằng đêm tại các phòng trà. Các đài radio, các nhà xuất bản, các hãng làm đĩa hát đua nhau phổ biến những bài thơ phổ nhạc này của chúng tôi. Nó trở thành những tình khúc của một thời. Thời kỳ đẹp nhất của người Việt trong thế kỷ này chăng?”

Thi sĩ Cung Trầm Tưởng, nhạc sĩ Phạm Duy và họa sĩ Ngy Cao Uyên năm 1959. Ảnh: huyvespa

Trong số những bài thơ được phổ nhạc của Cung Trầm Tưởng, có lẽ ai cũng biết đến 2 ca khúc Mùa Thu ParisTiễn Em của nhạc sĩ Phạm Duy, phổ từ bài thơ Chưa Bao Giờ Buồn Thế:

Ngôn ngữ trong 2 bài thơ này thật ra không phải mới lạ hay phá cách để nổi tiếng, mà được giới trẻ đón nhận một cách thích thú vì một chi tiết trước đó chưa bao giờ (hoặc hiếm khi) xảy ra, đó là:

Một chàng thanh niên Việt Nam du học có người yêu bên Pháp với tóc vàng mắt xanh… hai người yêu nhau và chính những cuộc chia tay trên ga vắng đã thi vị hóa câu chuyện để nó trở thành một mode mới trong đời sống thanh niên thời bấy giờ. Bài thơ như một trang sách mới cùng những con đường lạ lẫm bên trời Tây mở ra cho giới trẻ và đâu đó người đọc cảm thấy phần nào hả hê bù đắp lòng tự ái dân tộc đã bị mất mát khá nhiều dưới gót giày được gọi là khai hóa văn minh của thực dân Pháp.

Mùa thu Paris
Mùa thu Paris
Trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ
Rưng rưng rượu đỏ tràn ly

Mùa thu đêm mưa
Phố cũ hè xưa
Công trường lá đổ
Ngóng em kiên khổ phút, giờ

Mùa thu âm thầm
Bên vườn Lục-Xâm
Ngồi quen ghế đá
Không em buốt giá từ tâm

Mùa thu nơi đâu?
Người em mắt nâu
Tóc vàng sợi nhỏ
Mong em chín đỏ trái sầu

Mùa thu Paris
Tràn dâng đôi mi
Người em gác trọ
Sang anh, gót nhỏ thầm thì

Mùa thu không lời
Son nhạt đôi môi
Em buồn trở lại
Hờn quên, hối cải cuộc đời

Mùa thu! mùa thu
Mây trời âm u
Yêu người độ lượng
Trông em tâm tưởng, giam tù

Mùa thu!…
Trời ơi! Tình thu!


Click để nghe Thái Thanh hát Mùa Thu Paris trước 1975

Đó là nguyên tác bài thơ mang tên Mùa Thu Paris, đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành ca khúc cùng tên, nổi tiếng qua giọng hát của các danh ca Thái Thanh, Sĩ Phú.

Nhà thơ Cung Trầm Tưởng chia sẻ kỷ niệm về bài thơ này:

“Tôi làm những bài thơ về Paris đó là có thật. Lẽ dĩ nhiên khi làm thơ thì mình cũng lý tưởng hóa nó một chút, tất cả về tóc vàng mắt xanh là có thật. Thời đó tôi học ở trường Pháp cứ bị mang tiếng là Tây con, đã sẵn có ngôn ngữ Pháp và văn hóa Pháp thấm nhuần trong người thành ra sang bên đó mình không bị lạ lẫm. Tôi gặp một số mối tình dù rằng không vĩnh viễn nhưng nó đánh giá những kỷ niệm đầu đời của mình”.

Kỷ niệm đầu đời cùng các mối tình tóc vàng mắt xanh ấy đã là nguồn cảm hứng cho nhiều bài thơ của Cung Trầm Tưởng vào thời mới lớn. Những chiếc ga nhỏ nằm trơ trọi giữa mùa đông nước Pháp đã từng chứng kiến biết bao cuộc chia tay trước đó, lại một lần nữa nhìn ngắm mối tình dị chủng giữa một chàng trai một đất nước bị trị và một cô gái tóc vàng, đại diện cho văn hóa và nếp sống phương Tây.

Hình ảnh Cung Trầm Tưởng khi đi học ở Paris, được “người em tóc vàng” chụp. Ảnh: Jimmy show

Từ một trong những lần chia ly đó, nhà thơ Cung Trầm Tưởng đã sáng tác Chưa Bao Giờ Buồn Thế, vốn quen thuộc với khán giả yêu nhạc bằng cái tên khác Tiễn Em – Bài hát do nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc:

Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa đông Paris
Suốt đời làm chia ly

Tiễn em về xứ mẹ
Anh nói bằng tiếng hôn
Không còn gì lâu hơn
Một trăm ngày xa cách

Ga Lyon đèn vàng
Tuyết rơi buồn mênh mang
Cầm tay em muốn khóc
Nói chi cũng muộn màng

Hôn nhau phút này rồi
Chia tay nhau tức khắc
Khóc đi em. khóc đi em
Hỡi người yêu xóm học

Để sương thấm bờ đêm
Đường anh đi tràn ngập lệ buồn em…

Ôi đêm nay
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa đông Paris
Suốt đời làm chia ly

Tàu em đi tuyết phủ
Toa anh lạnh gió đầy
Làm sao anh không rét
Cho ấm mộng đêm nay
Và mơ ngon trên khắp nẻo đường rầy !

Trời em mơ có sao
Mình anh đêm ở lại
Trời mùa đông Paris
Không bao giờ có sao

Trời mùa đông Paris
Chưa bao giờ buồn thế!


Click để nghe Sĩ Phú hát Tiễn Em trước 1975

Tám câu đầu tiên của bài hát Tiễn Em được nhạc sĩ Phạm Duy giữ nguyên câu chữ của bài thơ nguyên thủy, không sửa một chữ nào, mô tả cuộc chia ly giữa 2 người dị chủng: Một sinh viên ở miền viễn Đông và một cô gái tóc vàng bản xứ. Họ tiễn nhau trên một sân ga nhỏ nằm trơ trọi giữa mùa đông nước Pháp lạnh lẽo, đó là “ga Lyon đèn vàng” giữa “tuyết rơi buồn mênh mang”. Ga Lyon này không phải là ở thành phố Lyon như nhiều người tưởng, mà có tên chính thức là Paris-Gare-de-Lyon, là một trong sáu ga xe lửa tuyến chính lớn ở Paris – thủ đô nước Pháp.

Ga Lyon đèn vàng
Cầm tay em muốn khóc…

Vì sao ánh đèn sân ga lại màu vàng? Điều này cũng được Cung Trầm Tưởng giải thích, đó là vào một buổi chiều mùa đông Paris lạnh giá, qua làn sương mù lạnh lẽo thì ánh đèn sân ga đã trở thành vàng vọt, gợi hình tượng lãng mạn nhưng cũng thật buồn, buồn như là tâm trạng của đôi tình nhân đang quyến luyến nhau không rời trước giờ phút phân ly.

Vì sao họ phải xa nhau, và “tiễn em về xứ mẹ” là xứ nào? Nhà thơ kể lại:

“Mùa Ðông ở Paris thời hậu thế chiēn, không khí thường bị ô nhiễm; và phổi nàng không được mạnh, và nàng lại bị suyễn nữa, vì thế bác sĩ khuyên là trong ba tháng mùa Ðông, nàng nên đi về miền Địa Trung Hải để hưởng không khí trong sạch. Ba tháng xa cách, thế nhưng thời đó tuổi trẻ lắm lúc đam mê và cũng hơi cường điệu, tôi có cảm tưởng xa nhau biền biệt, nên mới trải tâm sự thành bài thơ”.

Nàng con gái tóc vàng rời Paris tròn 3 tháng để về Marseille, là thành phố miền Nam nhìn ra Địa Trung Hải có nắng ấm, có biển muối mặn, tốt hơn cho sức khỏe của nàng. 3 tháng được được nhà thơ làm tròn thành “100 ngày xa cách”.


Click để nghe danh ca Anh Ngọc hát Tiễn Em trước 1975

Hỡi em người xóm học
Sương thấm hè phố đêm
Trên con đường anh đi
Lệ em buồn vương vấn.

Tuyết rơi phủ con tầu
Trong toa em lạnh đầy
Làm sao em không rét
Cho ấm mộng đêm nay?

“Xóm học” trong đoạn này được tác giả giải thích là khu đại học ở Paris. Họ yêu nhau khi tuổi còn rất trẻ mà thi sĩ Cung Trầm Tưởng nói đó là thời bồng bột. Ông đã theo đuổi một cô gái tóc vàng, và nàng cũng nhiệt thành đáp lại tình cảm, họ thường hẹn nhau ở vườn Lục Xâm (Luxembourg) với công viên ghế đá mà nhà thơ đã nhắc tới trong bài Mùa Thu Paris:

Mùa thu âm thầm
Bên vườn Lục-Xâm
Ngồi quen ghế đá
Không em buốt giá từ tâm

Mùa thu nơi đâu?
Người em mắt nâu
Tóc vàng sợi nhỏ
Mong em chín đỏ trái sầu

Mùa thu Paris
Tràn dâng đôi mi
Người em gác trọ
Sang anh, gót nhỏ thầm thì…

Công viên ghế đá ở trong vườn Lục Xâm

Hai người cùng là sinh viên, cùng trọ học nơi mà ông gọi là “gác trọ”. Rồi một hôm nàng sang gõ cửa, được ông ghi lại bằng hình ảnh thật nhẹ nhàng: Sang anh, gót nhỏ thầm thì…, thể hiện sự bối rối, thẹn thùng của người thiếu nữ.


Click để nghe Thái Thanh hát Mùa Thu Paris trước 1975

Ngoài Mùa Thu ParisChưa Bao Giờ Buồn Thế, nhà thơ Cung Trầm Tưởng còn viết tặng cho người yêu tóc vàng bài thơ Kiếp Sau cũng đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc.

Tác giả kể rằng bài thơ Kiếp Sau ra đời vào thời điểm ông có ý định trở về nước, sắp phải xa người yêu, lần này không phải là tạm thời xa cách như trong Tiễn Em, mà là phải vĩnh viễn rời xa, cho nên ông muốn bù đắp cho nỗi buồn của người yêu:

“Bù em một thoáng trời gần,
đơm hoa kết mộng cũng ngần ấy thôi!
Bù em góp núi chung đồi
thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ

Bù em xuôi có ngàn thơ,
vẫn nghe trắc trở bên bờ sông thương
Quên thôi, bông sẽ phai hường,
mà xưa tiếng gọi nghe dường thiên thu.

Non sông bóng mẹ sầu u,
mòn trông ngưỡng cửa, chiều lu mái sầu
Thôi em xanh mắt bồ câu,
vàng tơ sợi nhỏ xin hầu kiếp sau.”

Chữ “Bù” trong thơ rất độc đáo và đa nghĩa, nhưng có lẽ vì không hợp với giai điệu nên nhạc sĩ Phạm Duy đổi thành chữ “Đền”.


Click để nghe Thái Thanh hát Kiếp Sau trước 1975

Theo tác giả Thụy Khê, chữ “Đền em” nó nũng nịu, Tây hơn, hợp thời hơn, nhưng “Bù em”, mới hiếm, mới Việt. Chữ đền có nghĩa đổi trao, lấy đi rồi đền lại. Còn chữ “bù” chỉ có cho mà thôi, đó là sự “lấp đầy”. Nguyên lý lấp đầy lại rất nữ tính, rất nhục cảm, rất rất Cung Trầm Tưởng.

Sau đây xin trích thêm một đoạn phân tích bài thơ, bài hát Kiếp Sau của tác giả Thụy Khê, mà chính nhà thơ Cung Trầm Tưởng cũng khá tương đắc:

Nhạc sĩ Phạm Duy có lý khi ông đổi lại là đền em. Ai cũng hiểu. Ở Phạm Duy là ý thức cộng đồng, ý thức dân ca, ở Cung Trầm Tưởng là ý thức biệt dã, ý thức thi ca. Bù em là ngôn ngữ thứ nhất, ngôn ngữ bùa chú khác lạ, không giống ai: Ngôn ngữ vừa được nhà thơ tác tạo. Cả bài thơ có hơi cổ điển, có hồn ca dao. Nhưng không phải ca dao thuần túy mà là ca dao đã hóa thân, cổ điển đã tục lụy.

“Thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ”

Các cụ xưa đâu viết thế. Các cụ môn đăng hộ đối, đâu có thấy bình dân “cũng rồi” ngồi chung chiếu với quý tộc “thiêu nương”. Rồi lại:

“Thôi em xanh mắt bồ câu”

Ca dao đâu viết thế. Ca dao thường trực tiếp, dễ hiểu: Em thôi, mắt xanh, hay mắt em, thôi xanh… Nên khi gặp thôi em xanh mắt người đọc lạc vào mê đạo.

“Mà xưa tiếng gọi nghe dường thiên thu”

Toàn thể câu thơ là một bể hoang đường, lạc đất.

Tất cả những “cũng rồi”, “mà xưa”, “nghe dường” gieo vào câu thơ ở những chỗ bất ngờ nhất, làm lỗi nhịp, làm đảo thần lục bát, phát sinh một hồi âm mới: Wagner hay Mozart? Phạm Duy hay Văn Cao? Có hết. Tất cả đồng quy ở tiếng gọi thiên thu hay tất cả đều đã hoang sơ?

Cung Trầm Tưởng đã xướng lên một thứ cổ dao hiện đại:

“Non sông bóng mẹ sầu u
Mòn trông ngưỡng cửa, chiều lu mái sầu”

Những tiết tố âm nhạc, quá khứ, hiện tại, không gian, thời gian, ẩn hiện, giao tỏa với nhau. Những hình ảnh sáo mòn như “đơm hoa kết mộng”, “sông Thương trắc trở” được hồi sinh trong một kiếp mới, nhờ cách xếp câu, đảo tứ:

“Bù em một thoáng trời gần,
đơm hoa kết mộng cũng ngần ấy thôi!
Bù em góp núi chung đồi
thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ

Bù em xuôi có ngàn thơ,
vẫn nghe trắc trở bên bờ sông thương”

Những cách treo chữ: cũng rồi, cũng ngần…, buông chữ: bù em, thôi em…, đảo chữ: mòn trông…, hoặc tạo cảnh: chiều lu mái sầu… đều có tính cách phá tán âm thanh lục bát, phá tan nội dung ca dao để tạo ra, về mặt thời gian, một tiếng gọi từ ngàn xưa vọng lại, về mặt âm thanh và tư tưởng, một khúc điệu mới, phong liệm nỗi buồn nguyên thủy, rồi nghiền tán nó ra, rắc vào không gian, gieo vào vũ trụ.

Một bài thơ khác nữa là Khoác Kín, cũng là một trong những giá trị độc đáo của thi ca Cung Trầm Tưởng mà Phạm Duy đã phổ nhạc và đổi tên thành Chiều Ðông (Phạm Duy có tài lựa những tuyệt tác của mỗi tác giả để đưa vào cung bậc âm thanh). Khoác Kín cũng là một bài thơ ngắn, nhưng mỗi câu, mỗi chữ đều là những giọt tuyết lệ của thời gian, nhỏ trong không gian tàn tạ:

“Chiều đông tuyết lũng âm u
bâng khuâng chiều tới tiếp thu trời buồn
Nhớ ngày tầu cũng đi luôn,
ga thôn trơ nỗi, băng nguồn héo hon”


Click để nghe Thái Thanh hát Chiều Đông trước 1975

Chiều Đông không được biết đến nhiều, nhưng thi sĩ Cung Trầm Tưởng cho biết trong số những bài thơ của ông được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc, ông thích ca khúc này nhất, vì nhạc điệu của nó phản ánh đúng nhất cái hồn bài thơ gốc mà ông sáng tác.

Nội dung bài thơ Khoác Kín nói về kỷ niệm của nhà thơ khi ông cùng người yêu lên một vùng tuyết trắng trong dịp Noel ở Pháp. Họ định ở đó trong 2 tuần, nhưng được 1 tuần thì cô gái có việc phải về trước, làm nên một cuộc chia lìa trên sân ga:

Phường xa nhịp sắt bon bon,
Tàu như dưới tỉnh, núi còn vọng âm.

Sân ga mái giọt âm thầm:
Máu đi có nhớ hồi tâm đêm nào?
Mình tôi với tuyết non cao;
Với cồn phố tịnh buốt vào xương da;

Với mây trên nhợt ánh tà;
Với đèn xóm hạ cũng là tịch liêu.
Tôi về bước bước đăm chiêu,
Tâm tư khoác kín sợ chiều lạnh thêm.

Bài thơ thứ 5 của Cung Trầm Tưởng được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành bài hát nổi tiếng, không còn là bài tình ca nữa, mà mang đậm chất ma mị đến rợn người, đó bài thơ Tương Phản, thành bài hát mang tên Bên Ni Bên Nớ.

Từ một bài thơ được Cung Trầm Tưởng sáng tác khi mới 18 tuổi, qua nét nhạc thượng thừa của Phạm Duy, nó trở thành bài hát vẽ thành một bức tranh màu xám đầy tương phản của đô thành Sài Gòn trong những năm thập niên 1950.

Ca khúc này mang đầy chất liêu trai, lời nhạc mông lung nhưng có thể làm ám ảnh người nghe, nội dung bài hát bày ra hai cảnh đời mâu thuẫn, nhưng cũng từ đó đã đề cao tình nhân ái, tinh thần tích cực và an vui hạnh phúc của con người dù có phải ở vào cảnh nghèo túng.


Click để nghe Khánh Ly hát Bên Ni Bên Nớ

Nguyên tác bài thơ mang tên Tương Phản của thi sĩ Cung Trầm Tưởng, ông sáng tác bài này vào năm 1950, khi ông sống ở vùng Dakao, khi ấy vẫn là một vùng ngoại thành tối tăm, hoang vắng và xơ xác. Dakao ngày ấy đã được nhạc sĩ Lam Phương mô tả là một xóm nghèo “lầy lội qua muôn lối quanh”“gập ghềnh đường đê tối tăm” như trong bài hát Kiếp Nghèo, hay là “vàng ánh điện câu” với hắt hiu mái lá vách phên như trong bài Xóm Đêm của nhạc sĩ Phạm Đình Chương.

Một đêm, từ vùng ngoại ô nhìn về phía đô thành với đèn hoa rực rỡ, thi sĩ Cung Trầm Tưởng nhìn thấy rõ một bức tranh tương phản, giữa một bên là đô thành tráng lệ, một bên là hoang liêu như một bãi tha ma.

Từ bài thơ Tương Phản, nhạc sĩ Phạm Duy viết thành ca khúc mang tên Bên Ni Bên Nớ với ca từ khá sát với lời thơ gốc,.

Hãy cùng đi vào chi tiết từng lời hát:

Đêm chớm ngày tàn,
theo tiếng xe về,
lăn về viễn phố

Em hỡi sương rơi,
ngoài song đêm hạ,
ôi buồn phố xá

Hoang liêu về chết tha ma,
tiếng chân gõ guốc xa xa
Người xa vắng người,
người xa vắng người…

“Đêm chớm ngày tàn” thể hiện một bức tranh động, mơ hồ, ở đó có thể nghe cả tiếng xe hối hả về viễn phố cuối ngày. Rồi sương rơi, đêm xuống, bên cạnh những bãi đất dài hoang vu tối tăm và nghĩa trang buồn ở nơi xa ánh đèn phố thị này, chợt nghe tiếng gõ guốc xa xa dồn giã, như là thanh âm của sự sống, là chút giao cảm của đồng loại, là sợi dây mỏng manh và yếu ớt kết nối giữa hoang liêu bãi tha ma hãi hùng này với những những rộn ràng của đô thành rực rỡ.

“Người xa vắng người” là để diễn tả những linh cảm của nhà thơ về sự phân hóa của những người trong xã hội đang chớm hình thành. Đó là phân ly giữa người giàu và người nghèo, người sống và người chết…

Sự tương phản đó được mô tả rõ nét hơn ở đoạn sau:

Em có nghe dồn giã
bước ai vất vả
bóng ai chập chờn?

Hồn ai cô đơn tìm về ấm cúng
Em có nghe bi ai tình ai ấp úng
Thương ai lạc loài
ăn mày xán lạn ngày mai…

Hình dáng kẻ ăn mày chập chờn trong đêm tối, như là một bóng ma vật vờ trên lối nhỏ, lên tiếng ấp úng và van xin chút tình thương, lời cầu xin đó bi ai như tiếng của oan hồn. Đó là những hình ảnh ở nơi tối tăm, nghèo nàn nhưng đầy ắp lòng thương cảm ở “bên ni”. Tương phản với “bên nớ”, dù có những truy hoan dài theo chuỗi cười vô tận, nhưng đó là chuỗi cười theo “vạn mảnh ly tan”:

Đêm ni ai say đất lở, em ơi có nghe rạn vỡ
Vạn mảnh ly tan theo chuỗi cười…
Bên tê thành phố tráng lệ
Giai nhân nằm khoe lõa thể
Bên ni phố vắng ôi lòng ngoại ô

Có những sự tương phản ngay cả bên trong vẻ bề ngoài tráng lệ của bên tê, đó là của những trơ trẽn giai nhân khoe lõa thể, những truy hoan lạc bước, và nhìn lại “bên ni phố vắng” thì chỉ thấy một nỗi ngậm ngùi ngân dài…

Em có nghe hồ như bước ai gõ nhịp bước ai giang hồ?
Hẹn ai bên ni dài in ngõ cũ
Em có nghe bên ni lạnh như bên nớ?
Phút giây chia lìa, trong lòng vẫn phải đèo mong…

Hai tâm linh giam kín lại
Bấm đốt ngón tay chờ đợi
Chờ ngày con thơ, thơ cũng ra đời

Em ơi ngoài kia liếp ngõ
Sương rơi ngoài song khép hở
Bên trong kín gió ấm ơi là tình.

Đoạn cuối của bài hát được nhạc sĩ Phạm Duy “rút gọn” câu chữ cho hợp với nhạc nên ý nghĩa không được thông suốt, thành như là bức tranh trừu tượng, ẩn hiện một cách mơ hồ.

Xin chép lại đoạn cuối của nguyên tác từ bài thơ:

Em có nghe mơ hồ
Bước ai thao thức
Gõ nhịp hẹn hò
In dài ngõ cụt

Bóng ai giang hồ
Bên nớ bên ni đêm lạnh cả
Lạnh đêm mà chẳng lạnh vuông phòng

Em ơi bên trong
Dù chia ly đôi phút
Đồng mang nhớ đèo mong

Hai tâm hồn giam kín
Bốn mắt xanh bịn rịn
Anh ngồi làm thơ
Anh ngồi bấm đốt con thơ ra đời

Bên ngoài liếp ngõ sương rơi
Bên trong kín gió ấm ơi là tình…

Ở đoạn này, vẫn là tương phản với những ly tan của “bên nớ”, ở bên ni có những người nghèo khó, thiếu thốn, mà về tình cảm với nhau thì luôn luôn tràn đầy. Đêm khuya gió lạnh từng cơn, dù là bên ni hay bên nớ cũng đều lạnh cả, nhưng ở bên ni thì “Lạnh đêm mà chẳng lạnh vuông phòng”, và dù “bên ngoài liếp ngỏ sương rơi” thì bên trong vẫn “kín gió ấm ơi là tình”…

Hình tượng “bấm đốt ngón tay” được nhà thơ Cung Trầm Tưởng giải thích như sau:

“Thời đó tôi cũng có quen một cô thiếu nữ ở Huế và tôi mê lắm, cùng học trung học. Tôi có vợ chồng một anh bạn, cùng học một trường, anh có một đứa con sắp ra đời, và tôi là cha đỡ đầu cho đứa bé đó. Từ cảm hứng đó tôi mới làm bài này, trong có câu “bấm đốt ngón tay chờ đợi/chờ ngày con thơ, thơ ra đời”.

Có lẽ cũng vì quen với cô thiếu nữ Huế, nên dù là một người gốc Bắc, thi sĩ dùng những chữ rất Huế trong bài thơ này, như là “bên ni, bên nớ, bên tê”.

Ca khúc Bên Ni Bên Nớ đã được ca sĩ Julie Quang hát trước năm 1975, nhưng bài hát này chỉ thành công nhất là với tiếng hát Khánh Ly sau năm 1975. Cô thể hiện bài hát này thành công đến nỗi có lẽ vì vậy mà sau đó không có ca sĩ nào hát lại Bên Ni Bên Nớ nữa. Bài hát có giai điệu mông lung, hoang hoải và đậm không khí liêu trai, hoàn toàn thích hợp với giọng hát liêu trai – Khánh Ly.

chuyenxua.net biên soạn
Nguồn tham khảo: Mặc Lâm (RFA), Đông Kha (nhacxua.vn), Thụy Khê

Viết một bình luận