Nhà Thờ Đức Bà đã được xây dựng như thế nào gần 150 năm trước?

Nhà thờ Đức Bà, còn được gọi là Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn, tên chính thức là Vương cung thánh đường chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội, đang trùng tu lần thứ 3, sau gần 1,5 thế kỷ hiện diện tại Sài Gòn. Việc trùng tu này dự kiến mất 10 năm (2017-2027), trong khi người Pháp mất chỉ 3 năm để xây dựng công trình này (1877-1880), vượt kế hoạch 2 năm (dự kiến xây trong 5 năm).

Ở mỗi thành phố lớn hoặc thị tứ lớn đều có một nhà thờ chính tòa, là nhà thờ chính của một giám mục trong các giáo phận hay tổng giáo phận thuộc Cơ Đốc giáo.

Ngay sau khi đánh chiếm Sài Gòn và giành được thắng lợi vào năm 1861, người Pháp cho tu sửa lại một ngôi chùa nhỏ của người Việt (đã bỏ hoang vì chiến tranh) cho người Pháp đi lễ. Vị trí của Nhà thờ nhỏ đó nằm trên đường số 5 (sau đặt tên là đường Vannier, nay là đường Ngô Đức Kế), gần với đường 16 (Catinat – Tự Do). Đây được xem là nhà thờ chính tòa đầu tiên của Sài Gòn.

Nhà và ngôi chùa hoang của người An Nam, nơi được sửa lại để thành nhà thờ, hình vẽ trên báo L’Illustration năm 1864

Tới năm 1863, sau khi đã chính thức chiếm được Sài Gòn làm thuộc địa, nhu cầu cần có một Nhà thờ chính tòa lớn hơn, vì vậy vào ngày 28/3/1863, linh mục Lefebvre đã cho động thổ xây dựng nhà thờ chính tòa Sài Gòn thứ 2, làm bằng gỗ, nằm trên đường Kinh Lớn (đại lộ Charner), tại vị trí ngày nay là tòa nhà Sunwah số 115 Nguyễn Huệ (Tòa Hòa Giải cũ).

Lễ động thổ ngày 28/3/1863

Nhà thờ này hoàn thành chỉ sau 4 tháng, được nhà thầu Chatain thực hiện theo bản vẽ và dưới sự chỉ đạo của Đại tá công binh Coffyn (là người đầu tiên vẽ đồ án quy hoạch Sài Gòn), và sự giám sát của Đại úy Blazy.

Vị trí nhà thờ ngày nay là tòa nhà Sunwah (Nguyễn Huệ)

Vì Nhà thờ làm bằng gỗ tạp nên sớm hư hại do thời tiết vùng nhiệt đới và các loại côn trùng gây hại như mối và mọt gỗ. Chỉ vài năm sau khi được đưa vào sử dụng (1868), nhà thờ bị hư hại nặng nên các buổi lễ quan trọng của Nhà thờ được tổ chức trong phòng khánh tiết của Dinh Thống Đốc cũ (vị trí sau này là trường học Lasan Taberd, nay là trường Trần Đại Nghĩa) cho đến khi Nhà thờ lớn được xây xong.

Nhà thờ lớn đó chính là Nhà Thờ Đức Bà ngày nay, được xây dựng kiên cố và tồn tại suốt gần 1.5 thế kỷ qua.

Tháng 8 năm 1876, Thống đốc Nam kỳ Victor Auguste (nam tước Duperré) đã tổ chức một kỳ thi vẽ đồ án thiết kế nhà thờ mới. Vượt qua 17 đồ án thiết kế khác, đồ án của kiến trúc sư J. Bourard với phong cách kiến trúc Roman cải biên pha trộn nét phong cách kiến trúc Gothic đã được chọn. Ban đầu, địa điểm xây cất được đề nghị ở 3 nơi:

  • Trên nền Trường Thi cũ (nay là góc đường Lê Duẩn và Hai Bà Trưng, tức vị trí tòa Lãnh sự Pháp).
  • Ở khu Kinh Lớn (tại vị trí nhà thờ cũ, nay thuộc đường Nguyễn Huệ).
  • Vị trí hiện nay.

Sau cùng vị trí hiện nay đã được chọn. Sau khi đề án thiết kế được chọn, Thống đốc Nam kỳ Duperré đã cho đấu thầu việc xây dựng nhà thờ, và chính người kiến trúc sư thiết kế là Bourard cũng là người trúng thầu và trực tiếp giám sát công trình.

Ngày 7 tháng 10 năm 1877, Giám mục Isidore Colombert đặt viên đá đầu tiên trong buổi lễ có mặt Thống đốc Nam Kỳ và đông đủ nhân vật cấp cao chính quyền thuộc địa. Lễ Phục sinh, ngày 11 tháng 4 năm 1880, nghi thức cung hiến và khánh thành do cố đạo Colombert tổ chức trọng thể với sự có mặt của Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers, việc xây dựng chỉ mất 3 năm, trong khi dự trù ban đầu là mất 5 năm.

Hiện nay, trên bệ phía trên, bên trong cửa ra vào nhà thờ, có chiếc bảng cẩm thạch gắn trong hành lang (transept) ghi ngày khởi công, ngày khánh thành và tên vị công trình sư.

Điều khoản xây dựng Nhà thờ

Các điều kiện xây dựng được thông qua vào ngày 28/4/1877 tại Hội đồng Tư Mật, nhà thầu Bourard trúng thầu với giá thầu ban đầu được giao khoán là 2.268.041,24 francs. Các điều khoản và điều kiện xây dựng nhà thờ như sau: (ghi lại dựa theo Hồ sơ số 9744, Phông phủ Thống đốc Nam kỳ, tư liệu còn lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia II)

“Nhà thầu không phải nộp tiền ký quỹ, nhưng để đảm bảo hợp đồng, nhà thầu sẽ phải ứng trước, hoặc bằng công việc, hoặc bằng việc cung cấp vật liệu, với giá trị là 100.000 francs trên số tiền phải trả theo quý.

Chính quyền sẽ chi trả số tiền 2.268.041,24 francs thành 6 đợt, bắt đầu từ năm 1877 và được phân bổ như sau:

  • 1877: 180.000
  • 1878: 300.000
  • 1879: 450.000
  • 1880: 450.000
  • 1881: 450.000
  • 1882: 438.041.24

Hồ sơ thầu sẽ chỉ được thực hiện sau khi được Thống đốc thông qua. Căn cứ Điều 23 Luật Tài chính ngày 8/7/1852, tiền khấu trừ 3% sẽ nộp cho quỹ thương binh hải quân trên tổng số tiền phải trả theo hồ sơ thầu này.

Sở Công chánh (Ban Nhà ở dân dụng) sẽ có quyền kiểm tra việc thực hiện công trình; Sở sẽ phải đảm bảo rằng các vật liệu dùng để thi công phải thực hiện đầy đủ các điều kiện bắt buộc theo nguyên tắc xây dựng.

Toàn bộ vật liệu cần thiết để xây Thánh đường, được hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ giống như các vật liệu được Sở Công chánh sử dụng; Các vật liệu này không phải chịu một khoản thuế nào, bất kể các quyết định sau này của chính quyền về vấn đề này như thế nào.

Nhà thầu được phép xây dựng bằng chi phí của mình, một đườnh ray ở bên mặt đường Thabert (nay là Nguyễn Du) để vận chuyển vật liệu từ rạch Thị Nghè tới đường Catinat (nay là Đồng Khởi). Khi kết thúc công trình, nhà thầu phải dỡ bỏ đường ray, các tà vẹt… và trả lại hiện trường cho con đường.

Đá hoa cương dùng để xây Thánh đường phải được lấy từ các mỏ đá của Nhà nước, chính quyền sẽ đảm bảo việc cung cấp đá này cho nhà thầu Bourard, thông qua ông Mayer – Chủ thầu khai thác.

Trong trường hợp ông Mayer không hoàn thành công việc cung cấp này, ông Bourard có quyền sử dụng các vật liệu này từ nơi khác, miễn là thích hợp, và chính quyền sẽ phải chịu trách nhiệm về sự chênh lệch giữa giá mua và giá do nhà thầu Mayer cung cấp, theo hồ sơ thầu ngày 10/4/1877.

Nguồn nhân công mà nhà thầu Bourard đưa từ Pháp sang, vì nhu cầu thực hiện công trình, sẽ được hưởng quyền đi lại bằng phương tiện vận chuyển của nhà nước, nhưng nhà thầu sẽ chịu chi phí về thực phẩm và các loại phí sử dụng khác.

Công trình sẽ phải hoàn công vào năm 1882; tuy nhiên nhà thầu vẫn có thể hoàn thành trước thời điểm này, và trong trường hợp công trình được bàn giao trước ngày 1/1/1882, chính quyền sẽ tiến hành thanh toán chi phí đợt cuối cùng trong 6 tháng đầu năm 1882.

Trong trường hợp không thực hiện được các điều khoản hợp đồng, vì nhà thầu mất khả năng hoặc vì lý do khác, các vật liệu ứng trước để đảm bảo có giá trị 100.000 francs sẽ được sung công và dùng để hoàn thành công trình.

Thánh đường nằm trên đường Catinat phải được xây dựng đúng như bản vẽ và dự toán kinh phí kèm hồ sơ thầu khoán.

Các loại vật liệu sử dụng là loại tốt nhất.

Bê tông sẽ được làm bằng đá hoa cương cùng vôi loại vữa số 4 đối với phần dưới tháp, và loại vữa số 3 đối với phần trên.

Phần trên lớp bê tông sẽ được xây bằng đá hoa cương, có trát vữa số 3.

Hình ảnh hiếm hoi chụp công trình lúc Nhà thơ đang xây hình (chính giữa hình). Đường trong hình là Norodom, bên phải là Dinh Thống Đốc (nay là Dinh Độc Lập). Nhà mái ngói thấp (giữa hình) đang che phần móng công trình đang xây dựng. Tòa nhà bên trái hình ngày nay là UBND Quận 1, nằm bên cạnh Nhà thờ

Đá hoa cương được lấy từ mỏ đá Núi Đất, sẽ được cắt với kích thước nhỏ gọn. Gạch chất lượng loại 1, phải được thể hiện rõ bên ngoài, sẽ được xây cẩn thận, tô với loại vữa số 2 hoặc 3, theo đúng vị trí; các mặt đá được dựng đối xứng, theo bề mặt thẳng đứng; các chỗ nối hàng thẳng và hàng ngang đều nhau, sau đó được gắn chặt bằng xi măng Portland.

Các khối đá nhân tạo được chỉ định như đá xây cuốn, bên ngoài cũng như bên trong của công trình, được lấy từ Pháp, nhà thầu không thay các khối đá này bằng hoa cương và gạch xen lẫn nhau.

Sắt và gang, như đã nói ở trên, sẽ do một kỹ sư hải quân tiếp nhận ở Pháp. Loại vật liệu này sẽ được để cẩn thận, bọc một lớp bên ngoài trước khi bốc hàng lên tàu.

Ngói lợp là loại ngói tốt nhất, theo mẫu mà kiến trúc sư đã đưa ra.

Toàn bộ khung sườn mái của công trình, cũng như của tháp chuông, sẽ được làm bằng sắt.

Hai quả chuông được bọc bằng chì, có hoa văn nổi, cũng như được làm ở ngoài mặt tiền.

Tranh vẽ chỉ dùng để trang trí ở phần chính điện và vẽ 3 lớp, kể cả lớp mỏng nhất được vẽ trên các đồ dùng băng sắt ở bên trong lẫn bên ngoài.

Các cổng bên ngoài công trình được làm bằng tôn dày, với hoa văn bằng sắt giống như bức tranh.

Các cổng này sẽ được sơn theo kiểu giả gỗ hoặc giả đồng.

Toàn bộ cửa kính hình hoa hồng và các ô cửa sổ bằng thủy tinh”.

Một số điểm đáng chú ý về cấu trúc Nhà thờ

Khi thiết kế mái ngói, kiến trúc sư đã thành công trong việc kết hợp hài hòa giữa kiểu mái ngói Việt với mái ngói Tây. Căn cứ theo loại ngói lợp hiện nay, có thể phân chia mái ngói nhà thờ thành 03 vùng:

Vùng mái cao nhất: lợp ngói mũi tên (ngói Tây), với khoảng 25,000 viên ngói (loại 14 viên/m2). Nhìn từ trên cao, vùng mái này có hình dạng thánh giá.

Vùng mái trung gian: lợp ngói vảy cá, khoảng 78,000 viên (loại 67 viên/m2).

Vùng mái thấp nhật, cũng là nơi thể hiện kiểu mái ngói Việt: lợp ngói âm dương, khoảng 13,000 cặp ngói (loại 44 cặp/m2).

Nhà thiết kế đã bố trí thang đá, lan can sắt trên đỉnh mái để công tác bảo trì được thuận lợi.
Mái ngói của nhà thờ được sửa chữa chống dột nhiều lần, và trước khi trùng tu trên phần mái ngói cao nhất có 6 loại ngói, trong số đó loại ngói nhập từ Marseille với dòng chữ: 𝗠𝗔𝗥𝗦𝗘𝗜𝗟𝗟𝗘 𝗦𝗧. 𝗔𝗡𝗗𝗥𝗘, 𝗙𝗥𝗔𝗡𝗖𝗘 có độ chuẩn mực cao nhất, tuy nhiên số lượng chỉ còn 4,900 viên vào thời điểm năm 2015. Đây cũng là loại ngói có thể tìm được ở xưởng tàu Bason cổ.

Ngoài ra, Gạch sử dụng để xây mặt ngoài của tường có in tên thương hiệu lò gạch, nơi và năm sản xuất: WT 1878 – Saigon. WT là viết tắt của Wang Tai, một doanh nhân nổi tiếng Sài Gòn cuối thế kỷ 19. Gạch sử dụng các lớp kế tiếp của tường là loại gạch thẻ thường được sản xuất trong nước thời bấy giờ. Tường thiết kế khá dày để giúp cách âm và cách nhiệt cho không gian bên trong lòng nhà thờ, giảm tiếng ồn khi cử hành phụng vụ trong lúc xe cộ lưu thông nhộn nhịp bên ngoài.

Móng của thánh đường được thiết kế đặc biệt, chịu được tải trọng gấp 10 lần toàn bộ kiến trúc ngôi nhà thờ nằm bên trên. Và một điều rất đặc biệt là nhà thờ không có vòng rào hoặc bờ tường bao quanh như các nhà thờ quanh vùng Sài Gòn – Gia Định lúc ấy và bây giờ.

Nội thất thánh đường được thiết kế thành một lòng chính, hai lòng phụ tiếp đến là hai dãy nhà nguyện. Toàn bộ chiều dài thánh đường là 93 m. Chiều ngang nơi rộng nhất là 35 m. Chiều cao của vòm mái thánh đường là 21 m. Sức chứa của thánh đường có thể đạt tới 1.200 người.

Nội thất thánh đường có hai hàng cột chính hình chữ nhật, mỗi bên sáu chiếc tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ. Bàn thờ nơi Cung Thánh làm bằng đá cẩm thạch nguyên khối có hình sáu vị thiên thần khắc thẳng vào khối đá đỡ lấy mặt bàn thờ, bệ chia làm ba ô, mỗi ô là một tác phẩm điêu khắc diễn tả thánh tích. Ngay sau hàng cột chính là một hành lang và kế đó là nhiều nhà nguyện nhỏ với những bàn thờ về các thánh (hơn 20 bàn thờ) cùng các bệ thờ 14 chặng Đàng Thánh Giá làm bằng đá trắng khá tinh xảo, được bố trí như sau (nhìn từ cổng trước vào nhà thờ).

Trên tường được trang trí nổi bật 56 cửa kính mô tả các nhân vật hoặc sự kiện trong Thánh Kinh, 31 hình bông hồng tròn, 25 cửa sổ mắt bò bằng kính nhiều màu ghép lại với những hình ảnh rất đẹp. Tất cả các đường nét, gờ chỉ, hoa văn đều tuân thủ theo hình thức Roman và Gothic, tôn nghiêm và trang nhã. Tuy nhiên, trong số 56 cửa kính này hiện chỉ còn bốn cửa là nguyên vẹn như xưa, còn các cửa kính màu khác đều đã được làm lại vào khoảng những năm 1949 để thay thế các cửa kính màu nguyên thủy của nhà thờ đã bị bể gần hết trong thế chiến thứ 2. Lúc ban đầu, toàn bộ 56 ô cửa kính màu này do hãng Lorin của tỉnh Chartres (Pháp) sản xuất.

Còn trên trán tường của cửa vào bên phải có những hàng chữ bằng chữ Hán: Thiên Chúa Thánh Đường Đại Đức (Nhà thờ Thiên Chúa đầy ân đức), Thánh Mẫu Dịch Hạo Nguyên (Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội), và hàng chữ nói tới năm khánh thành nhà thờ 1880. Nội thất thánh đường ban đêm được chiếu sáng bằng điện (không dùng đèn cầy) ngay từ khi khánh thành. Vào ban ngày, với thiết kế phối sáng tuyệt hảo, hài hòa với nội thất tạo nên trong nội thất thánh đường một ánh sáng êm dịu, tạo ra một cảm giác an lành và thánh thiện.

Ngay phía trên cao phía cửa chính là “gác đàn” với cây đàn organ ống, một trong hai cây đàn cổ nhất Việt Nam hiện nay. Đàn này được các chuyên gia nước ngoài làm bằng tay, thiết kế riêng, để khi đàn âm thanh đủ cho cả nhà thờ nghe, không nhỏ mà cũng không ồn.

Phần thân đàn cao khoảng 3m, ngang 4m, dài khoảng 2m, chứa những ống hơi bằng nhôm đường kính khoảng một inch. Phần điều khiển đàn nằm riêng nối với thân đàn bằng những trục, có những phím đàn như đàn organ bình thường và những phím to đặt dưới sàn nhà (dài chừng 3m, ngang khoảng 1m) để người điều khiển đàn đạp lên khi dùng nốt trầm. Đàn còn có những thanh gõ lớn để đập vào phần dưới các ống hơi phát ra âm thanh. Hiện nay, cây đàn này đã hoàn toàn hư do bị mối ăn phần gỗ bàn phím điều khiển bằng tay.

Tháp chuông và bộ 6 quả chuông độc nhất vô nhị của Nhà thờ Đức Bà

Ban đầu, hai tháp chuông của nhà thờ cao 36,6m, không có mái và chỉ có độc một chiếc cầu thang hẹp chừng 40cm bề ngang.

Nội thất gác chuông rất tối và sàn được lót sơ sài bằng những miếng gỗ nhỏ cách khoảng, nhìn xuống thấy sâu hút.

Vào năm 1895, thánh đường xây thêm hai mái chóp để che gác chuông cao 21m, theo thiết kế của kiến trúc sư Gardes, tổng cộng tháp chuông cao 57m. Từ đỉnh tháp chuông có thể nhìn thấy phần lớn không gian phố phường Sài Gòn thời điểm đó. Và từ lúc này, Nhà thờ có thêm hệ thống 6 quả chuông độc đáo.

Một người Pháp đã từng viết về hệ thống chuông Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn như sau: “Cả vùng Viễn Đông, không nơi nào có thể sánh được, và ngay cả ở Pháp, nhiều nhà thờ cũng phải ghen tị!”

Có tất cả sáu chuông làm bằng đồng, gồm sáu âm, treo trên hai tháp chuông. Bộ chuông này do hãng đúc chuông Bolley chế tác vào năm 1879 tại Pháp với những đường nét họa tiết trên chuông rất tinh xảo và mỗi quả chuông đều có đường nét hoa văn khác nhau. Từ ngoài nhìn vào, trên tháp bên phải treo 4 quả chuông (sol, đô, rê, mi); tháp bên trái treo 2 chuông (la, si). Trên mặt mỗi quả chuông đều có các họa tiết rất tinh xảo. Tổng trọng lượng bộ chuông là 27.055 kg tức khoảng 27 tấn, nếu tính luôn hệ thống đối trọng (1.840 kg) được gắn trên mỗi quả chuông thì tổng trọng lượng của bộ chuông sẽ là 28.895 kg.

Chuông treo bên tháp phải nhà thờ Đức Bà
Chuông Sol lớn và nặng nhất

Chuông Sol còn gọi là chuông nhất, với đường kính 2,25m, cao 3,5m, nặng 8.785kg; chuông La (chuông 2) với đường kính 1,9m, nặng 5.931kg; chuông Si (chuông 3) với đường kính 1,7m, nặng 4.184kg; chuông Đô (chuông 4) với đường kính 1,69m, nặng 4.315kg; chuông Rê (chuông 5) với đường kính 1,45m, nặng 2.194kg; chuông Mi (chuông 6) với đường kính 1,25m, nậng 1.646kg.

Chuông Rê
Chuông Mi và Sol
Chuông La

Bộ chuông độc đáo này được vận hành bằng điện và có sự hỗ trợ hệ thống đạp bằng chân để tạo lực đẩy khi bắt đầu khởi động đối với những quả chuông có trọng lượng lớn. Độ vang của chuông có thể lan xa ở khoảng cách 10 km.

Vào ngày thường, thánh đường chỉ cho đổ một chuông mi vào lúc 5 giờ sáng và đổ chuông re vào lúc 16h15. Vào ngày lễ và chủ nhật, nhà thờ thường cho đổ ba chuông theo hợp âm Mi, Rê và Đô (đúng ra là hợp âm ba chuông Mi, Đô và Sol, nhưng vì chuông Sol quá nặng nên thay thế bằng chuông Rê). Vào đêm vọng Lễ Giáng Sinh thì mới đổ cả sáu chuông. Tiếng chuông ngân xa tới 10 km theo đường chim bay.

Bộ máy đồng hồ trước vòm mái cách mặt đất chừng 15m, giữa hai tháp chuông được chế tạo tại Thụy Sĩ năm 1887, hiệu R.A, cao khoảng 2,5m, dài khoảng 3m và ngang độ hơn 1m, nặng hơn 1 tấn, đặt nằm trên bệ gạch. Dù thô sơ, cũ kỹ nhưng hoạt động khá chính xác. Để điều chỉnh đồng hồ, phía sau máy có một chiếc đồng hồ to cỡ đồng hồ dùng trong gia đình. Chỉ cần theo dõi chiếc đồng hồ con này, có thể biết đồng hồ lớn chạy chậm, nhanh, đúng hay sai giờ. Mỗi tuần phải lên giây đồng hồ một lần và chiếc cần để lên giây đồng hồ giống như tay quay máy xe. Đồng hồ còn có hệ thống báo giờ bằng búa đánh vô các chuông của nhà thờ, tuy nhiên đã không còn hoạt động do dây cót quá cũ.

Một điểm đặc biệt khác là phần móng nhà thờ rất kiên cố. Trải qua hơn 135 năm sử dụng nhưng không có dấu hiệu nghiêng lún hay bị nứt tường dù nhà thờ tọa lạc độc lập trên vị trí xung quanh có mật độ phương tiện lưu thông rất lớn. Tuy nhiên, trải qua hàng trăm năm tồn tại, một số hạng mục của tháp chuông bị hư hỏng, xuống cấp và hiện đang được trùng tu, hệ thống chuông cũng tháo xuống.

Nói thêm về 2 tháp chuông nhà thờ, mùa mưa năm 1964, sét đánh hư đỉnh tháp chuông, hình dưới đây là lúc tháp chuông đang được sửa chữa.

Quảng trường Nhà Thờ

Hình chụp từ trên Nhà Thờ Đức Bà nhìn xuống phía trước, đoạn đầu đường Catinat (đường Tự Do). Thời thuộc địa Pháp, quảng trường này mang tên là Place de la Cathédrale (Quảng trường Nhà Thờ Lớn), nằm ở phía trước Nhà thờ.

Sau khi nhà thờ được xây dựng, phần quảng trường phía trước được bỏ trống, chỉ trồng hoa.

Nhà thờ năm 1890 nhìn từ đường Catinat
Lúc này vẫn chưa có quảng trường trước nhà thờ
Khi đã có quảng trường và tượng Bá Đa Lộc – Hoàng tử Cảnh

Khoảng hơn mười năm sau khi khánh thành nhà thờ, khu vực phía trước mới được quy hoạch thành quảng trường rộng, chính giữa đặt tượng đài bằng đồng được đúc tại Pháp, bao gồm một bệ bằng đá hoa cương đỏ hình trụ tròn, bên trên là bức tượng đồng của Giám mục Adran (Bá Đa Lộc) cùng Hoàng tử Cảnh.

Bá Đa Lộc (Pigneau de Behaine), thường được gọi là Cha Cả, là giáo sĩ Công giáo người Pháp được chúa Nguyễn Phúc Ánh trọng dụng. Còn Hoàng Tử Cảnh chính là con trai trưởng của chúa Nguyễn Ánh.

Tượng Bá Đa Lộc và Hoàng Tử Cảnh, phía bên kia là Bưu điện thành phố

Tượng đài tồn tại từ năm 1903 đến tháng 10 năm 1945 thì bị phá đi, để lại bệ tượng bỏ trống hơn 10 năm.

Hình ảnh Nhà thờ chụp năm 1948, lúc này tượng phía trước chỉ còn phần đế để không

Cái đế tượng nằm bên trái hình này

Năm 1958, Linh mục Giuse Phạm Văn Thiên đã cho đặt tạc một Tượng Đức Mẹ Hòa bình bằng loại đá cẩm thạch trắng Carrara của Ý. Tượng được tạc tại Pietrasanta cách Roma khoảng 500 km. Khi tượng hoàn tất thì được đưa xuống tàu Oyanox vào ngày 8 tháng 1 năm 1959 từ hải cảng Gênes chở tượng qua Việt Nam và tới Sài Gòn ngày 15 tháng 2 năm 1959.

Sau đó, công ty Société d’Entreprises đã dựng tượng Đức Mẹ lên bệ đá vốn còn để trống kể từ năm 1945 trước nhà thờ. Tự tay linh mục viết câu kinh cầu nguyện “Xin Đức Mẹ cho Việt Nam được hòa bình” rồi đọc trước đông đảo quan khách có mặt hôm ấy. Ngày hôm sau, Hồng y Krikor Bedros XV Aghagianian từ Roma qua Sài Gòn để chủ tọa lễ bế mạc Đại hội Thánh Mẫu Toàn Quốc, đã làm phép bức tượng này vào buổi chiều ngày 17 tháng 2 năm 1959. Từ sự kiện này mà từ đó nhà thờ có tên gọi là Nhà thờ Đức Bà. Ngày 5 tháng 12 năm 1959, Tòa Thánh đã cho phép làm lễ “xức dầu”, tôn phong Nhà thờ chính tòa Sài Gòn lên hàng tiểu Vương cung thánh đường (basilique). Từ đó, tên gọi chính thức của thánh đường là Vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn.

Năm 1960, Tòa Thánh thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam với ba tòa Tổng Giám mục tại Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Nhà thờ trở thành nhà thờ chính tòa của vị tổng giám mục Sài Gòn cho đến ngày nay.

Nhà thờ đang rào để trùng tu. Nhìn từ trên xuống, mái ngói tạo thành hình thánh giá

Bộ sưu tập hình ảnh Nhà thờ trước 1975

Hình chụp từ chính diện:

Hình chụp từ đầu đường Tự Do

Hình chụp lệch bên trái:

 

Hình chụp lệch bên phải: 

Phía sau lưng Nhà Thờ là đường Duy Tân (hiện nay là đường Phạm Ngọc Thạch, cắt ngang là đại lộ Thống Nhứt (nay là Lê Duẩn). Mời bạn xеm một số hình ảnh chụp mặt sau của nhà thờ:

 

Hình chụp từ đường Duy Tân 
Từ Hồ Con Rùa (Duy Tân) nhìn qua Nhà Thờ 
Hình chụp từ đại lộ Thống Nhứt

Hình chụp phía sau bên hông phải:

Từ tượng của Trương Vĩnh Ký trong công viên nhìn ra nhà thờ

Hình chụp phía sau bên hông trái:

           

Một số hình ảnh khác:

Khu vực nhà thờ nhìn từ trên cao 
Từ Nhà Thờ nhìn ra đầu đường Tự Do, đường cắt ngang là Nguyễn Du

Từ Nhà Thờ nhìn ra bên trái là Bưu Điện, một công trình kiến trúc độc đáo khác của Sài Gòn
Nhà Thờ nhìn từ đường Tự Do, ngày 30 tháng 4 năm 1975    
Nhà thờ năm 1990 qua góc ảnh của Doi Kuro

chuyenxua.net biên soạn

Viết một bình luận