Hoàn cảnh sáng tác và ý nghĩa của bài thơ – bài hát “Cuối Cùng Cho Một Tình Yêu” qua lời kể của tác giả

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất ít khi sáng tác nhạc phổ từ thơ. Có thể nói một thế mạnh của ông là sáng tác lời nhạc, cho nên hầu hết các nhạc phẩm Trịnh Công Sơn được ông viết cả nhạc lẫn lời, chỉ có 1 số ít là nhạc phổ thơ, và nổi tiếng nhất là bài Cuối Cùng Cho Một Tình Yêu, được phổ từ thơ Trịnh Cung năm 1958.

Về hoàn cảnh sáng tác bài thơ và bài hát này, ca sĩ Khánh Ly đã từng kể một câu chuyện trên chương trình Asia. Trong bài này, xin mời các bạn tìm hiểu thông qua chính lời kể của thi sĩ – hoạ sĩ Trịnh Cung được đăng trên Việt Weekly.

Việt Weekly: Xin họa sĩ Trịnh Cung h biết ề bài thơ uối ùng h một tình yêu đã đượ nhạ sĩ Trịnh Công Sơn phổ nhạ.

Trịnh Cung: Về hai bài thơ ủa tôi đã đượ Trịnh Công Sơn phổ nhạ. Trướ hết tôi nói ề bài Cuối Cùng Ch Một Tình Yêu. Từ năm bài thơ đã đượ phổ nhạ h đến nay đã hơn 60 năm. Năm 1958, tôi iết bài thơ Cuối Cùng Ch Một Tình Yêu, à ũng ngay năm đó, Trịnh ông Sơn phổ nhạ. Ch đến nay, nó đã sống gần nửa thế kỷ. âu huyện ề bài thơ này ũng đã ó một số người hỏi tôi ề nguồn gố tại sa nó ra đời, âu huyện tình trng đó nói ề ai.

Riêng a sĩ Khánh Ly, trng một lần nói huyện ới hãng băng đĩa Asia ó kể âu huyện tình này. Khánh Ly kể rằng là trng một đêm thứ dậy, tôi đốt tập thơ tôi, tôi khó huhu. Lú đó Trịnh Công Sơn thường từ B’la ề ở ới tôi trng một ăn phòng rất nhỏ, hỉ ừa h 3 người ngủ trên 1 hiế hiếu. Trịnh Công Sơn nghe tôi khó mới bật dậy, thấy tôi đốt tập thơ mới hụp lại à giữ đượ 1 bài thơ, đó là bài Cuối Cùng Ch Một Tình Yêu, Trịnh Công Sơn đã phổ nhạ bài thơ đó.

Ðó là âu huyện mà Khánh Ly đã kể. Có lẽ Khánh Ly đã nghe Trịnh Công Sơn kể à sau đó qua thời gian đã trở thành một âu huyện hấp dẫn ề bài thơ này. Nhưng đây là những tháng ngày, ũng gần như là uối đời ủa tôi, tôi rất ám ơn Khánh Ly đã kể âu huyện ấy ới quí ị, nhưng hôm nay tôi muốn nói thật ề bài thơ này.

Sự iệ tôi đốt tập thơ là ó thật bởi ì đó là một thái độ mà tôi ần ó để tôi tập trung h hội họa, tôi không muốn dính líu đến thơ a, ì ó một quan niệm là làm ái gì làm h tới nơi, hai ba thứ nó lôi thôi lắm, h nên tôi quyết định hủy bỏ làm thơ để tập trung h hội họa.

Nói ấn đề bài thơ d Trịnh ông Sơn phổ nhạ. Năm tôi đốt thơ là năm 1963, nhưng Trịnh Công Sơn đã phổ nhạ bài thơ này à năm 1958, không ó nghĩa như âu huyện Khánh Ly đã kể. Bài thơ này tôi làm khi tôi ra Huế, “họ trò trng Quảng ra thi, thấy ô gái Huế hân đi không đành”. Tất ả hình ảnh ủa ô gái Huế thời đó ẫn òn kỳ thơ mộng à không thay đổi đượ.

Và thời đó, những nữ sinh trường Ðồng Khánh, tầm tan trường, họ như là những ánh bướm trắng bay trng những ông iên ở trướ bờ sông Hương à tôi lạ lõng giữa những đàn bướm ấy. Lẽ dĩ nhiên là không ba giờ tiếp ận đượ họ đâu ì họ ó một ung áh rất Huế, rất thiêng, rất kín đá à mình hỉ ó biết đi the, nhìn ngắm họ rồi mơ mộng ề họ à bài thơ này tôi iết ề họ.

Hình ảnh một ô gái Huế hung hung thôi à tôi hư ấu thành một huyện tình. Tôi ngông uồng để h thấy rằng mình không phải là “họ trò trng Quảng ra thi” mà mình ũng là một ái gì đó ó thể từ khướ họ, h ai. Một lối hờn dỗi ủa một người không hạm đượ đến tình yêu, nên bày ra ái trò là… “Ừ thôi em ề”, ề đi, tại ì ó đượ đâu mà bả ở lại, h nên thôi để h ai hơn là ứ… “Ừ thôi em ề”. Nhưng em ề rồi, thì sa? Em ề rồi thì… bàn tay đói… Em ra khỏi tay rồi, em đâu ó trng òng tay, mà em đâu ó ba giờ trng òng tay tôi đâu… thành ra hai òng tay tôi, hai bàn tay tôi luôn luôn đói, đói khát ì một hình ảnh à tôi ứ mãi đi the những uộ tan trường à những buổi hiều, buổi trưa như ậy, nên… hân phải mỏi thôi.

Nhưng ó anh bạn làm thơ ở Sài Gòn lại ó một suy nghĩ khá ề “hai bàn hân mỏi” rất là ui,… Tại sa lại ó hai bàn hân mỏi, hỉ ó “yêu quá đáng” mới mỏi thôi! Nhưng thật ra à thời ủa húng tôi, à thập niên 50-60, tình yêu rất là thánh thiện, tàn là mơ mộng, tàn là tưởng tượng, không dám hạm đến bàn tay ủa người ᴄᴏn gái mình yêu thíh… Thế thì âu huyện ủa bài thơ đó là bài thơ hàn tàn hư ấu nhưng dựa trên ung áh ủa những ô gái Huế thời đó.

Lẽ dĩ nhiên nó thuộ ề những ô gái đẹp ủa thời đó, ũng là huyện bình thường thôi. ái gì mà ᴄᴏn người ta dâng hiến thì thường dâng hiến h những gì tốt nhất, đẹp nhất. Lẽ dĩ nhiên là đẹp nhất đối ới mình. Ở đây không ó nghĩa là những ô gái xấu kia không đẹp, tại ì là hưa hắ tôi đã nhìn ra những ái đẹp ủa họ, họ ó thể đẹp dưới ái nhìn ủa những người đàn ông khá. Thành ra, nếu ó phạm à điều gì ũng h tôi xin lỗi. Dẫu sa những ô gái đó ngày nay đã thành bà, bà nội, bà ngại rồi, phải không? Ch tôi gởi lời thăm hỏi những ô gái Huế, ẫn đẹp trng lòng tôi h đến ngày hôm nay.

– Vậy hỉ ó một phần âu huyện ủa Khánh Ly kể là đúng thôi, òn 9 phần òn lại là sai hết?

Những phần khá ó lẽ d âu huyện Khánh Ly thương tôi muốn h âu huyện nó hấp dẫn hơn h là d anh bạn tôi Trịnh Công Sơn kể lại một áh biến tấu. Nhưng mà huyện ó thật là tôi ó đốt tập thơ. Bìa tôi định in h tập thơ ủa tôi, sau đó trở thành bìa ủa tập thơ rất hay ủa nhà thơ Hàng Trú Ly “Trng ơn yêu dấu”. Ðó là bìa tôi h tập thơ ủa tôi à sau đó tôi tặng lại h nhà thơ Hàng Trú Ly để làm bìa.

Viết một bình luận