Bộ ảnh “nón cối” ở Sài Gòn thập niên 1940-1950 – Lịch sử nón cối (nón cát) ở Việt Nam từ thời Pháp thuộc

Mời các bạn xem lại những hình ảnh nam giới đội “nón cối” ở Sài Gòn trong các hình ảnh chụp hồi thập niên 1940-1950.

saigon-1950-photo-by-carl-mydans-16045006824-o

Đường Chaigneau (nay là Tôn Thất Đạm) ở Chợ Cũ
Rue d’Ormay, từ 1955-1975 là đường Nguyễn Văn Thinh, nay là Mạc Thị Bưởi

saigon-1950-dinh-gia-long-photo-by-carl-mydans-16512826660-o

saigon-1950-bn-xch-l-my-ch-c-photo-by-carl-mydans-16479750798-o
saigon-1950-bn-xch-l-my-ch-c-gc-v-di-nguy-ph-kit-gn-pha-trc-php-hoa-ngn-hng-photo-by-carl-mydans-164

saigon-1950-poste-de-police-photo-by-carl-mydans-16485150159-o
Hình ảnh cảnh sát quốc gia tại bót cảnh sát nằm phía sau Nhà hát Sài Gòn, năm 1950

saigon-1950-poste-de-police-photo-by-carl-mydans-16485150029-o
saigon-1950-poste-de-police-photo-by-carl-mydans-16485149899-o
saigon-1950-poste-de-police-photo-by-carl-mydans-16485149839-o

Đây không phải là “nón cối” theo cách hiểu thông thường là chỉ có ở miền Bắc, với màu xanh áo lính. Những cái nón trong hình trên được gọi là nón cát, có màu trắng, đã theo người Pháp vào Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ 20.

Xuất xứ của nón này là của thực dân Anh, sử dụng ở các nước thuộc địa vùng Trung Mỹ và Ấn Độ từ những năm thế kỷ 19. Để thích ứng với khí hậu nhiều nắng nóng, họ chọn loại gỗ mềm, nhẹ, xẻ mỏng, uốn thành hình rồi gắn keo, bọc vải để chế ra loại mũ có vành rộng này. Với ưu điểm nhẹ, mát, che được cả nắng lẫn mưa, loại mũ này phát triển nhanh chóng.

Ngày xưa ở Việt Nam, nón cát gắn liền với nam giới cũng giống như nón lá của phụ nữ

Lính viễn chinh của Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha… khi đi chiếm đóng thuộc địa đã bắt chước và sử dụng ở các nước miền nhiệt đới khác ở Châu Phi và Nam Á, trong đó có Việt Nam. Người Pháp gọi nón này là casque, nghĩa là nón bảo hiểm, người Việt đọc thành nón “cát”.

Ngoài ra, nón này còn được gọi bằng cái tên liège (người Việt gọi là li-e), vì nó được làm bằng liège, một thứ bấc, bọc bên ngoài bằng một lớp vải trắng, thỉnh thoảng phải dùng phấn nước đánh lên một lớp cho trắng. Cũng có người gọi đây là kiểu nón thời thuộc địa, rất thông dụng trong những năm 30, 40, 50 của thế kỷ 20 ở khắp 3 miền Việt Nam, mà nhiều nhất là Sài Gòn và Hà Nội, nếu như nữ giới quen thuộc với cái nón lá, thì nam giới thường đội nón cát mỗi lần ra khỏi nhà. Có một chi tiết hơi khác giữa những cái nón cát ở miền Bắc và miền Nam, đó là nón cát ở miền Nam dày hơn, to hơn.

Có nhiều biến thể của loại nón cát này. Thời gian sau đó người Hoa ở Chợ Lớn có đúc loại nón có kiểu dáng giống như vậy nhưng bằng nhựa, giá rẻ nên phổ biến trong giới phu chạy xích lô hoặc người lao động. Tương tự, các xưởng nón ở Hà Nội cũng tự sản xuất được nón cát, góp phần làm cho kiểu nón này trở nên phổ biến.

saigon-1950-bn-xch-l-my-ch-bn-thnh-photo-by-carl-mydans-16479751268-o

saigon-mar-1950-bao-dais-picture-adorning-the-city-hall-3888741474-o

saigon-1950-photo-by-carl-mydans-16575037688-o

saigon-1950-horsecart-photo-by-carl-mydans-16090072713-o

Ở Hà Nội, từ hơn 100 năm trước đã có một xưởng làm mũ cát nổi tiếng tên là Hai Chinh trên phố Hàng Đào.

Lúc đó mũ cát chỉ có hạn chế trong giới quan chức Pháp, những người Việt nhà giàu. Ông chủ xưởng nón là Trịnh Văn Chính đã tự mày mò để tạo ra loại nón cát có giá thành rẻ, phù hợp với điều kiện khí hậu bản địa.

Nón cát ở Hà Nội năm1954

Ban đầu xưởng phải nhập liège từ Bắc Phi về để làm nguyên liệu. Tuy nhiên qua đầu thập niên 1940, tình tình chính trị phức tạp ở Đông Dương làm cho việc nhập liège gặp khó khăn, ông Hai Chinh thay bằng loại cây dút. Tuy loại nguyên liệu này không tốt bằng, nhưng có thể khắc phục được bằng cách dán kỹ hơn để chống thấm nước. Năm 1922, “mũ cát Hai Chinh” đã khẳng định chất lượng bằng tấm Huy chương vàng ở hội đấu xảo (triển lãm) thuộc địa ở Marseille, lúc đó có vua Khai Định tới dự.

Dưới đây là quảng cáo mũ cát Hai Chinh trên báo Hà Nội năm 1928, 1930:

Thời kháng chiến chống Pháp, bộ đội Việt Minh đội mũ cát đan bằng tre, trùm lưới thắt nơ hoặc vải ngụy trang. Loại nón này có thể nhìn thấy qua các hình bên dưới.

Thời đánh Mỹ, mũ được cải tiến, làm bằng gỗ dút (bần) hoặc giấy nén (bìa carton) bọc vải. Từ nửa cuối thập niên 1960, bộ đội bắt đầu xài mũ nhựa cứng bọc vải, chủ yếu do Trung Quốc sản xuất. Sự bền chắc “nồi đồng cối đá” của nó khiến xuất hiện danh xưng “mũ cối”. Không chỉ đội lên đầu, mũ cối có thể kê làm giá súng, thay gáo múc nước, thay gàu tát nước bắt cá. Chiếc mũ này có cái đai bên trong cho phép thay đổi vừa với đầu tất cả mọi người.

Thời bình, mũ cối trên công trường thay được mũ bảo hiểm, đi ngoài trời vừa che mưa nắng lại được gió lùa mát rượi cái đầu vì có đai bên trong.

Sau đây là đoạn viết về cái nón cát – casque của tác giả Phạm Công Luận, trích từ cuốn Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm:

Ban đầu, người đàn ông Việt còn búi tóc củ hành nên không mặn mà gì với cái nón này vì đội vào sẽ vướng. Đến cuối thế kỷ 19, ở Sài Gòn và các vùng lân cận, đàn ông Việt thích nghi với đời sống phương Tây quen dần các loại nón từ Pháp đưa sang. Bên cạnh cái nón nỉ, cái nón casque phổ biến dần.

Ngoài nón casque, còn có các loại nón khác của phương Tây mà người Việt dần quen thuộc như nón cát kết (casquette), nón bê rê (béret).

Lúc đầu, loại nón này chỉ có người Pháp dùng ở thuộc địa. Cho đến Đại chiến thế giới lần I năm 1914 – 1918, tuy vẫn còn những người thủ cựu thích đầu đội khăn đóng “Suối đờn” cùng với áo dài xuyến đen nhưng có nhiều người làm việc cho Pháp, do thường ngày mặc y phục kiểu Tây nên bắt chước dùng theo. Họ xài nón casque của hiệu Paul Canavaggio, diện với áo vải bố trắng cổ đứng. Rồi có những ông tuy còn thích mặc áo dài Annam nhưng thấy cái nón này quá tiện nên bỏ khăn đóng ra, khoác áo the và đội nón casque. Giới bồi bếp và người làm mướn làm thuê cũng dùng nó. Sau những dùng dằng trong tâm thức người dân cố cựu, nón casque hòa nhập vào bộ y phục người Việt. Theo tạp chí Khoa học xuất bản năm 1923, ở Nam kỳ từ cuối thập niên 1920, người ta đã quen dùng nón casque, lần lần bỏ nón nỉ và nón rơm.

Trước khi người Bắc vô Nam lập nghiệp, mỗi năm nón rơm từ Pháp chở qua bán ở thị trường Nam kỳ rất nhiều, các tiệm bán nón của người Ấn và Hoa đều bày bán. Nam kỳ là xứ nhiều nắng nhưng mưa cũng nhiều, nên khi nón casque sang, người ta càng chuộng. Nón casque che nắng tốt hơn nón rơm, gặp gió không bay và nếu gặp mưa hay bị va chạm cũng không bị biến dạng, móp méo như nón rơm. Nón casque có bị lấm dơ, chỉ cần chút phấn là mới trở lại.

Nhà văn Nguyễn Hiến Lê viết trong hồi ký: “Ở Nam, kinh tế phát triển hơn, trường học nhiều hơn, nhưng năm 1935, về miền Tây, tôi vẫn thấy dân quê giữ được nhiều truyền thống cũ, nhiều cổ tục”. Tuy nhiên, theo mô tả của ông, truyền thống mà các cụ già đang gìn giữ đã có phần thay đổi để thích nghi với đời sống hiện đại đang lấn dần mà người miền Nam, với cá tính cởi mở đã tiếp nhận: “Có những cụ già để búi tóc mà đội nón tây (casque), ngồi ca nô, xe hơi mà thích truyện tàu, thuộc Minh tâm bửu giám”. Tính thực dụng đã giúp cái nón xa lạ được chấp nhận từ những người bảo thủ nhất, vì nó thích hợp với xứ nóng ẩm nhiều nắng như miền Nam. Ở miệt lục tỉnh, khoảng năm 1935, các thầy giáo ở Vĩnh Long đi dạy với trang phục “áo dài lương đen, quần trắng, đi giày hàm ếch hoặc giày Gia Định, đã phối hợp rất “ngọt” trang phục của mình với cái nón casque. Với trang phục đó họ “rất mẫu mực trong giảng dạy, sinh hoạt ăn – ở – đi lại, nói năng đạo mạo, được học trò và nhân dân kính nể, đặt họ đúng ngôi vị “quân sư phụ” ở đời. Thầy cô là thần tượng, là ước mơ lập thân, lập nghiệp của học sinh sau khi học tập vào đời”.

Cho đến thập niên 1950, ở Sài Gòn người ta vẫn còn dùng nón casque. Theo ông Nguyễn Văn Tỷ, từ năm 1948 cho đến năm 1954, Trường Pétrus Ký chỉ dành cho nam sinh, có ban Cao đẳng Tiểu học và ban Tú tài. Học sinh Pétrus Ký lúc đó được mặc khá thoải mái với quần short, hoặc quần tây dài. Áo sơ mi (bỏ ngoài hay bỏ trong quần), mang giày sandale hay giày bít. Nếu có đội nón thì thường là nón casque trắng. Có người cho là nón casque thuộc địa của người Pháp màu trắng, vành rộng hơn nón học sinh cùng thời tuy cùng màu trắng, vành dày nhưng nhỏ hơn.

Nhà văn Hoàng Hải Thủy kể là khi nhà thơ Nguyên Sa từ Pháp về năm 1955, không những không diện theo kiểu Tây như “mặc chemise dài tay, không bouton manchette, không cravate, không quần Dormeuil, không đi giày da verni bóng loáng…” cũng “không đeo đồng hồ Oméga, không bút máy Waterman hay Parker nắp vàng gài ở túi ngực áo như những ông du học ở Pháp về” mà chỉ “bận chemisette trắng, tức sơ-mi cụt tay, áo bỏ ngoài quần kaki, đi sandalle” và đặc biệt là đội cái nón casque coloniale, nón thuộc địa. Sau sáu năm du học bên Pháp, nhà thơ Nguyên Sa đã trở lại với các thứ trang phục tiện cho miền nắng nóng nhiệt đới mà trong đó, có cái nón rộng vành, cứng mà nhẹ.

Chiếc nón casque vẫn tiếp tục được dùng sau 1954, khi người Pháp về nước từ lâu.

chuyenxua.net biên soạn

1 bình luận về “Bộ ảnh “nón cối” ở Sài Gòn thập niên 1940-1950 – Lịch sử nón cối (nón cát) ở Việt Nam từ thời Pháp thuộc”

  1. Loại nón này miền Nam xử dụng thời trước thập niên 60’, sau này vì nhiều lý do không ai dùng nữa.
    Miền Bắc không có thói quen thay đổi nên vẫn giữ đến nay, nhìn rất là phản cảm ! Nhất là nón màu xanh lá cây rừng !

    Trả lời

Viết một bình luận