Khu biệt điện Trần Lệ Xuân ở Đà Lạt – Sự thật và “huyền thoại”

Bà Trần Lệ Xuân, vợ của ông Ngô Đình Nhu, là một người phụ nữ đặc biệt. Cuộc đời và gắn liền với giai đoạn lịch sử đầy biến động dưới thời Đệ nhất Cộng Hòa, đã có nhiều bài báo, cuốn sách viết về bà với những góc nhìn khác nhau, theo những quan điểm khác nhau. Khen, chê, đó là chuyện thường tình ở đời.

Ở Đà Lạt có một khu biệt thự do bà Trần Lệ Xuân cho xây dựng nằm ở đầu đường Yết Kiêu, mọi người quen gọi là Biệt điện Trần Lệ Xuân, nay là cơ sở của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV.

Khu biệt điện Trần Lệ Xuân. Góc dưới bên trái là Lam Ngọc, gần giữa hình là Bạch Ngọc có hồ bơi

Khu đất xây biệt điện được bà Trần Lệ Xuân mua lại của ông Trần Bá Đáng vào ngày 22/12/1958, ngay sau đó bà cho xây dựng biệt điện và đặt tên gọi là Bạch Ngọc, Lam Ngọc, Hồng Ngọc, trên khuôn viên rộng 13.000m2. Lam Ngọc và Hồng Ngọc được thiết kế, xây dựng mô phỏng theo kiến trúc người Pháp, nhưng với quy mô nhỏ gọn hơn, kích thước mỗi căn biệt thự cũng khiêm tốn hơn nhiều so với các căn villa thời Pháp. Điều đặc biệt là dù kích thước nhỏ nhưng bên trong các biệt thự đều sử dụng những đồ đạc nội thất hiện đại nhất thời đó. Gần như toàn bộ vật liệu xây dựng, đồ vật trang trí, dụng cụ sinh hoạt trong biệt điện đều được nhập khẩu từ nước ngoài.

Trung tâm của khu biệt điện là Lam Ngọc (có nơi ghi là Lâm Ngọc), đằng sau Lam Ngọc là hoa viên do kiến trúc sư người Nhật Hiroshi Kitagawa thiết kế và thi công, nên cũng được gọi là vườn hoa Nhật Bản. Phía hoa viên có một hồ sen, khi bơm đầy nước thì từ mặt hồ sẽ hiện rõ hình địa đồ Việt Nam.

Hình ảnh Lam Ngọc:

Hình trước 75:

Hình sau 75:

Đằng sau Lam Ngọc

Dãy nhà phía sau của Lam Ngọc, góc ảnh xưa & nay

Vườn Nhật Bản:

Ông bà Nhu ở Lam Ngọc năm 1962

Kế bên Lam Ngọc là Bạch Ngọc, có thể xem là công trình phụ trợ cho Lam Ngọc. Khác với Lam Ngọc và Hồng Ngọc được xây theo kiến trúc Pháp, vẻ bề ngoài của Bạch Ngọc có kiểu dáng hiện đại, là khu giải trí riêng, có quầy bar tổ chức tiệc, sàn khiêu vũ, phía trước có hồ bơi nước nóng, bên cạnh hồ bơi là vọng đài.

Hình ảnh Bạch Ngọc:

Hình trước 1975:

Hình Bạch Ngọc nhìn về phía Lam Ngọc

Hình sau 1975:

Hình vọng đài bên phía Bạch Ngọc:

Từ vọng đài nhìn xuống hồ bơi, hình trước 1975
Từ vọng đài nhìn xuống hồ bơi, hình sau 1975
Từ dưới nhìn lên vọng đài, hình sau 75

Ngoài Bạch Ngọc, Lam Ngọc dùng làm nơi giải trí và nghỉ ngơi cuối tuần của gia đình, bà Trần Lệ Xuân còn xây dựng Biệt thự Hồng Ngọc dành tặng cho cha ruột của mình là ông Trần Văn Chương, lúc đó là đại sứ của VNCH ở Hoa Kỳ.

Hình ảnh Hồng Ngọc hiện nay:

Biệt điện Trần Lệ Xuân đước xây trên một ngọn đồi với khuôn viên rộng, mang vẻ đẹp lộng lẫy với sự giao thoa giữa kiến trúc Pháp và nội thất hiện đại, nhưng mỗi căn biệt thự đều có kích thước nhỏ gọn, có quy mô nhỏ hơn nhiều nếu so với các căn biệt thự khác được xây cùng thời điểm. Điều này cũng dễ hiểu vì đây chỉ là nơi mà thỉnh thoảng gia đình ông bà Nhu về nghỉ mát, không phải là nơi ở lâu dài. Tuy nhiên sau 1963, nhiều người ghét chế độ nhà Ngô nên đã phóng đại quá mức sự xa hoa của khu biệt điện này.

Có tin đồn nói rằng, Biệt thự Lam Ngọc có một căn hầm trú ẩn dược làm bằng thép và đường hầm thoát hiểm dẫn ra sân bay Cam Ly cách biệt điện hơn 2km. Tuy nhiên thực tế thì chỉ có một căn hầm nhỏ dùng để trú ẩn tại chỗ, chứ không có đường hầm thoát hiểm như tin đồn.

Đường hầm từ biệt điện Trần Lệ Xuân ra sân bay Cam Ly là khó có thể xảy ra, bởi lẽ việc đào đường hầm dài tới 2km dưới lòng đất, băng qua nhiều quả đồi cao, thung lũng sâu vào thời điểm năm 1958 là khó có thể xảy ra. Ngoài ra, cho đến nay chưa từng có ai phát hiện ra dấu vết của đường hầm này (nếu có), và những cán bộ quản lý Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV (đặt trụ sở ở biệt điện Trần Lệ Xuân) cũng khẳng định là không có đường hầm nào.

Sau đảo chánh 1/11/1963, tài sản của gia đình họ Ngô bị tịch thu, Biệt điện Trần Lệ Xuân được trưng dụng làm Bảo tàng sắc tộc Tây Nguyên.

Sau năm 1975, Biệt điện Trần Lệ Xuân được Sở Du lịch tỉnh Lâm Đồng quản lý, đến năm 1984, UBND tỉnh Lâm Đồng chuyển giao nơi này cho Cục Lưu trữ nhà nước (nay là Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước) quản lý để làm nơi bảo quản khối tài liệu Mộc Bản Triều Nguyễn. Năm 2006, Bộ nội vụ thành lập Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV, thuộc Cục Văn thư Lưu trữ Nhà nước – Bộ Nội vụ. Trụ sở chính đặt ở Biệt điện Trần Lệ Xuân.

Đầu năm 2007, Biệt điện Trần Lệ Xuân được trùng tu với mức đầu tư 53 tỷ đồng để làm cơ sở cho Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV, nơi được giao lưu giữ hơn 34 ngàn mộc bản quý giá của truyền Nguyễn. Điều đáng nói là các mộc bản này từng được ông Ngô Đình Nhu dày công sưu tầm. Ông Nhu là người Việt đầu tiên, cũng là duy nhất cho tới nay tốt nghiệp trường Ecole Nationale des Chartes của Pháp, chuyên đào tạo lưu trữ viên cổ tự học danh tiếng. Bộ trường Bộ Nội vụ của chính phủ VNDCCH thời điểm năm 1945 là tướng Võ Nguyên Giáp đã từng thay mặt chính phủ ký sắc lệnh số 21 ngày 8/9/1945 cử ông Ngô Đình Nhu làm Giám đốc Nha Lưu Trữ công văn và Thư viện toàn quốc. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV đã dành hẳn một chuyên đề về nghiên cứu: “Ngô Đình Nhu – Nhà lưu trữ Việt Nam thời kỳ 1938-1946”.

Trong cuốn sách Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam’s Madame Nhu (phát hành ở Việt Nam với tên “Trần Lệ Xuân – Quyền lực bà rồng”, tác giả Monique Demery đã dẫn lời của bà Trần Lệ Xuân nói rằng trong ký ức của mình, bà muốn được sống bình yên ở Đà Lạt, và coi những ngày tháng ở nơi đây là hạnh phúc nhất trong cuộc đời. Trong cuốn sách này có đoạn kể khá chi tiết về quãng thời gian bà Nhu xây dựng biệt điện ở Đà Lạt, xin trích đoạn sách:

“Bà Nhu muốn trở lại một nơi quen thuộc khi bà chuyển đến Đà Lạt vào mùa xuân năm 1947.

Bà từng ghé thăm biệt thự đồi rất thường xuyên khi còn bé, và bà đã muốn ổn định tổ ấm ở đây với chồng và con gái nhỏ, tránh xa khỏi những mối căng thẳng đang gia tăng ở các đô thành.

Thế nhưng ít nhất mười năm đã trôi qua kể từ chuyến viếng thăm cuối cùng của bà. Đó là một thập niên khó khăn, ngay cả đối với một người như bà Nhu, một người con gái được che chở, bao bọc của một gia đình ưu tú, những người đã thông gia với gia tộc họ Ngô đầy uy tín ở miền Trung Việt Nam.

Bà từng bị quân đội Việt Minh bắt giữ, chia ly với chồng và buộc phải chạy bộ sơ tán khỏi thành phố Huế, bỏ lại gần như tất cả tài sản của mình ở sau lưng. Nơi nghỉ dưỡng sang trọng vùng núi một thời cũng chịu chung số phận.

Khi cùng chồng và con gái tới nơi, bà Nhu thấy khu biệt thự trên đồi thời thuộc địa đã thay đổi đáng kể so với những gì bà lưu giữ được trong kí‎ ức từ những chuyến thăm thời thơ ấu.

Các hộp đêm và nhà hát đã đóng cửa, và những lối tản bộ dọc theo phía trước hồ nay hoang phế. Khách sạn Palace không có người thăm và khi chiếc cầu thang tráng lệ trở nên xập xệ cũng không có ai chi trả cho việc phục chế.

Những bụi cây dại tràn lan khắp thành phố, cây cỏ cản lối mọi người sử dụng sân tennis trong khi lợn rừng đi lại quanh thành phố.

Nhưng Đà Lạt có vẻ vẫn an toàn hơn Huế hay Sài Gòn.

Việt Minh đã tiến hành một cuộc kháng chiến lan rộng khắp cả nước chống lại người Pháp. Cuộc chiến về sau đã kéo dài chín năm và làm mất đi hàng triệu mạng sống, nhưng ít nhất là ở Đà Lạt, mặt trận dường như còn xa.

Gia đình bà Nhu đã mượn một ngôi nhà tại số 10 phố Hoa Hồng từ một bác sĩ, một người bạn của cha bà Nhu.

Mặc dù đây không phải là một biệt thự lớn, cha mẹ của bà Nhu vẫn tới và ở cùng với họ vài tháng một lần và người anh trai của ông Nhu, ông Ngô Đình Diệm, cũng hay đến.

Đà Lạt là nơi cho người ta sự thoải mái nhưng vẫn còn những nét hoang dã và bà Nhu thừa nhận “không ai muốn băng qua vườn để vào bếp khi trời đã tối vì sợ gặp phải hổ”.

‘Thời gian hạnh phúc’

Mặc dù chiến tranh đang diễn ra và môi trường xung quanh còn tồi tàn, Bà Nhu gọi những năm tháng bà ở Đà Lạt là “thời gian hạnh phúc nhất”. Bà đã sinh thêm hai người con nữa, các cậu con trai Ngô Đình Trác, Ngô Đình Quỳnh, và bà mô tả cuộc sống của mình tại Đà Lạt là giản dị và an toàn, nơi mà bà hoàn toàn xa rời chính trị.

Bà tập trung chăm sóc gia đình ngày một đông, làm việc nhà và nấu ăn cho cả nhà.

Người phụ nữ lớn lên với 20 người hầu và có tài xế lái Mercedes nay hàng ngày đạp xe ra chợ và đưa con gái Lệ Thủy tới trường.

Ông Nhu thì mải mê với thú trồng hoa phong lan.

Nhưng mọi thứ ở Đà Lạt đều khá khác biệt. Người Pháp đã dựng lên thành phố này vào đầu thế kỷ 20 để làm nơi nghỉ ngơi hòng tránh sự nóng bức và bẩn thỉu của các thành phố khác.

Đà Lạt được xem như một khu biệt lập, “một đảo trắng” giữa xứ nhiệt đới, nơi người Pháp có thể nghỉ ngơi và quên đi họ đang ở Đông Dương.

Các ngôi nhà ở đây được xây giống những khu nhà nghỉ của dân đi trượt tuyết còn ga tàu được mô phỏng theo nhà ga ở Deauville, thị trấn ven biển ở Normandy.

Ngay cả hoa màu họ trồng cũng là để đỡ nhớ đồ ăn châu Âu. Ngay cả ngày nay các chợ ở Đà Lạt có đủ nguyên liệu để nấu súp Pháp, từ tỏi tây, cà rốt, hành, các loại rau xanh và khoai tây.

Vẻ ngoài bí ẩn

Đà Lạt thực ra không bao giờ cô lập khỏi Việt Nam. Cả thị trấn được xây lên bằng mồ hôi và nước mắt của nhân công thuộc địa.

Trớ trêu hơn nữa là các chủ xây dựng đã cạn tiền cho dù họ cũng đã xây dựng được một vẻ ngoài sang trọng cho Đà Lạt. Thành phố này cũng không phải là nơi trú ẩn xa hẳn khỏi chiến tranh. Đây thực tế là trụ sở trá hình cho tham vọng của Pháp nhằm giành lại quyền lực chính trị và quân sự họ từng có ở Việt Nam.

Ông Nhu cũng không quan tâm tới hoa lan quá mức như người ta tưởng. Thực ra ông đang gieo hạt cho một đảng chính trị – Đảng Cần Lao và đang tuyển mộ mạng lưới mà sau này được xem như lựa chọn chính trị đối lập với Việt Minh. Bà Nhu không vui vì chồng hay vắng nhà cả ở Sài Gòn và Đà Lạt

Nhiều người cho rằng khi về già, bà Nhu thường nghĩ về những hình ảnh đẹp đẽ của Đà Lạt nhưng thực ra không hẳn như vậy.

Trong hồi ký bà thừa nhận bà đã cô độc khi ở đây và viết: “Chồng tôi thường biến mất mà chẳng nhắn lại gì.”

Những cực nhọc mà bà Nhu phải chịu khi một mình nuôi ba con nhỏ đã được ghi lại trong những trang nhật ký mà bà bắt đầu viết từ năm 1959. Trong đó bà kể lại câu chuyện hoàn toàn khác với những điều nghe như chuyện cổ tích mà bà nói tới về sau này.

Bà Nhu đã được nhiều người xem như Đệ nhất Phu nhân của Việt Nam Cộng hòa khi bà bắt đầu những trang viết kể về sự thất vọng của bà khi ông Nhu vẫn thường xuyên đi vắng tại Sài Gòn, cũng giống như khi họ còn ở Đà Lạt.

Bà viết về mong muốn trở lại Đà Lạt và xa lánh chính trị.

Bà Nhu cũng cho xây một cụm biệt điện nhìn ra thung lũng ở số 2 Yết Kiêu. Một cho cha bà, một cho khách khứa và một cho chính bà. Giống như “làng nhỏ” của Marie Antoinette ngay gần Versailles, bà Nhu không nghĩ nó có gì xa hoa nhưng chẳng có thể dùng từ nào khác để tả nó. Nhà của bà sẽ được gọi là Lam Ngọc với một bể bơi được sưởi ấm, một vườn Nhật Bản và một hồ sen. Khi hồ đầy nước, hình bản đồ Việt Nam sẽ hiện ra.

Bà Nhu cũng không có ý định sẽ có thiết kế nội thất đơn giản cho ngôi nhà. Bà muốn có năm lò sưởi, khu bếp bằng thép không gỉ với các bếp tia hồng ngoại cộng thêm với trang trí lông thú. Mỗi phòng sẽ có một cửa bí mật và một thang bí mật dưới dường của bà sẽ dẫn bà tới một phòng ngầm và nơi trú ẩn được gia cố với thép chống đạn.

Khu biệt điện sẽ phải mất năm năm mới xây xong do bà Nhu còn muốn có thêm một sàn nhảy và trung tâm hội nghị. Bà cũng theo dõi kỹ càng việc xây dựng và yêu cầu người ta làm lại cửa trước tới tám lần và cửa sổ cả thảy 10 lần.

Một tháp cảnh vệ lớn, màu xám với các nhân viên bảo vệ tư nhân cũng sẽ được xây dựng ở cổng vào. Người ta nói nếu một con chim bay lạc vào khu nhà, nó sẽ bị bắn chết ngay. Nhưng bà Nhu không bao giờ có cơ hội sống “cuộc sống đơn giản” ở Đà Lạt. Lần cuối bà tới giám sát việc xây dựng là tháng Tám năm 1963. Ba tháng sau, Tổng thống Diệm và chồng bà đều đã chết và bà buộc phải sống lưu vong.

Bà không bao giờ trở về Việt Nam hay thăm lại Đà Lạt.

Giờ tòa biệt điện chính là Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV, nơi có bộ sưu tập Mộc bản Triều Nguyễn vô giá.

[…]

Cuộc sống của bà Trần Lệ Xuân thời gian ở Đà Lạt, trước khi dấn thân vào những sự phức tạp của chính sự, được tác giả Nông Huyền Sơn viết trên báo Công An như sau:

“Sau một thời gian lẩn trốn sự truy lùng của Pháp, Nhu quấn quần áo về Đà Lạt ăn cơm nhà ông linh mục Ngô Đình Thục. Trần Lệ Xuân theo chồng về xứ sương mù bắt đầu lăn xả vào giới bình dân mưu sinh trong cảnh bần cùng. Một tay nách con, một tay chạy chợ bán nuôi chồng trà thuốc. Giai đoạn này, bà có cơ hội sống bình yên, hạnh phúc trong cảnh “chồng ngáp xó nhà trông quà vợ chợ chiều”. Thiên chức làm vợ, làm mẹ trong bản chất biết thích nghi hoàn cảnh của bà được tô đậm nét trong giai đoạn này và được thể hiện rất rõ trong suốt diễn biến cuộc đời bà cho đến ngày thoát kiếp làm người.

Nhiều nhân chứng ghi nhận, cho đến năm 1952, bà là trụ cột chống chọi với cái nghèo túng trong khi ông chồng trở nên vô tích sự. Để cứu vãn tình thế túng quẫn, bà phải đem món nữ trang cuối cùng là chiếc vòng cổ của hồi môn ngày lấy chồng đem đi bán. Bà hoàn toàn không có chút tư chất nào về hoạt động chính trị. Bà cũng chằng có gì đặc biệt hơn bao nhiêu phụ nữ quần đen, áo trắng khác.

Thuở đó, người ta thấy, mỗi khi ông Nhu tiếp cơm khách tại nhà, bà đứng khoanh tay hầu, chứ không dám ngồi chung”.

chuyenxua.net biên soạn

1 bình luận về “Khu biệt điện Trần Lệ Xuân ở Đà Lạt – Sự thật và “huyền thoại””

  1. Dạng thâm cung bí sử này..dù cổ xưa hay cận đại..cho dù là người Việt Nam thuần túy..mấy ai tường tận..!!??..Dẫu bài viết có nói lên sự thật..đi nữa..thì mấy ai được đoc..?? Những ai đã đọc có mấy người tin…và ngoài kia xã hội xô bồ..cơm.áo.gạo.tiền ..còn chưa xong..thì còn biết đến chuyện gì khác nữa..!!!? Xa hoa Dinh thự hầu như triều đại nào…cũng giống như nhau..và thần dân thì đại đa số chẳng biết gì…ngoài sự vật lộn với cuộc sống hàng ngày…cuộc sống của quan quyền đối với họ là gì gì đó rất..rất xa xôi..huyền bí.

    Trả lời

Viết một bình luận